Có phải nhiều Fluor là tốt?
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 151.31 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hình ảnh trẻ bị sâu rằng dẫn đến trưởng thành sẽ có bộ răng rất xấu là nỗi ám ảnh của nhiều bậc cha mẹ. Mong muốn con mình sau này có được hai hàm răng trắng bóng, đều như hạt bắp, làm cho nhiều phụ huynh tìm cho được các chế phẩm chứa càng nhiều fluor càng tốt để cho trẻ sử dụng. Tuy nhiên, có phải dùng nhiều fluor, đặc biệt đối với trẻ là tốt?
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Có phải nhiều Fluor là tốt? Có phải nhiều Fluor là tốt?Hình ảnh trẻ bị sâu rằng dẫn đến trưởng thành sẽ có bộrăng rất xấu là nỗi ám ảnh của nhiều bậc cha mẹ. Mongmuốn con mình sau này có được hai hàm răng trắngbóng, đều như hạt bắp, làm cho nhiều phụ huynh tìmcho được các chế phẩm chứa càng nhiều fluor càng tốtđể cho trẻ sử dụng. Tuy nhiên, có phải dùng nhiều fluor,đặc biệt đối với trẻ là tốt?Vai trò của fluor trong cơ thểHàng ngày, cơ thể chúng ta phải được cung cấp đủ qua thứcăn, thức uống 5 chất dinh dưỡng: chất đạm, chất đường bột,chất béo, vitamin và chất khoáng. Fluor chính là chất dinhdưỡng nằm trong nhóm chất khoáng và là chất khoáng vilượng. Ký hiệu hóa học của fluor là F. Gọi là vi lượng vìhàng ngày cơ thể ta cần rất ít F. Lượng cung cấp qua thứcăn thức uống của F tính bằng miligram (mg), như trẻ 1 - 3tuổi cần 0,7mg F/ ngày, trẻ 4 – 8 tuổi cần 1,0mg F/ngày, trẻtừ 9 tuổi trở lên và người trưởng thành cần 2 - 4mg F/ngày. Bổ sung fluor hàng ngày với liều lượng vừa đủ là tốt nhất.Trong cơ thể, F tham gia vào quá trình phát triển răng, tạongà răng và men răng. Quá trình tích chứa F trong răng(đặc biệt ở men răng) xảy ra khi trẻ còn bé, trong thời giancơ thể bé hình thành và phát triển các răng vĩnh viễn. Fcũng có vai trò quan trọng trong quá trình tạo xương bằngcách ảnh hưởng đến việc điều hòa chuyển hóa canxi vàphosphor. Khi thiếu F sẽ dẫn đến bệnh sâu răng và đối vớixương sẽ dẫn đến bệnh loãng xương. Việc phát hiện mốiliên quan giữa thiếu F và bệnh sâu răng được bắt nguồn từthế kỷ thứ 19 khi người ta quan sát trong răng, đặc biệt ởngà và men răng có chứa F. Năm 1902, người ta phát hiệndùng F có thể khắc phục bệnh sâu răng vì lượng F ở nhữngrăng sâu (nhất là men răng) thấp hơn đáng kể so với bìnhthường. Người ta cũng nhận thấy khi lượng F trong nướcsinh hoạt thấp dưới 0,5mg/l sẽ xảy ra biểu hiện thiếu F màthường gặp nhất là sâu răng.Để phòng chống sâu răng do thiếu F, người ta sử dụng mộtsố biện pháp thông qua bổ sung F qua đường miệng. Nhưtất cả các loại kem đánh răng hiện nay lưu hành trên thịtrường đều chứa F nhằm bổ sung chất khoáng cần thiết này,thông qua có lượng F nhất định được nuốt đưa vào cơ thểkhi ta đánh răng. Hoặc có hẳn các chế phẩm bổ sung dinhdưỡng (còn gọi là thực phẩm chức năng) có chứa F đanglưu hành trên thị trường. Biện pháp bổ sung F quy mô lớnhơn hết là “fluor hóa nước sinh hoạt” tại các thành phố vàtại các nơi mà người ta có thể đưa lượng F thích hợp vàonước ăn hàng ngày (có cả ở nước ta). Bên cạnh đó, cần tạocác điều kiện sống hợp vệ sinh cho trẻ, cung cấp cho trẻchế độ dinh dưỡng hợp lý, có đầy đủ và cân bằng 5 chấtdinh dưỡng kể như trên. Như vậy, để giúp trẻ có hàm răngtốt, không bị sâu răng, không chỉ bổ sung F không thôi làđủ mà phải thực hiện cùng lúc nhiều biện pháp.Cần thiết nhưng không được thừaNhư đã nói ở trên, một đặc điểm của F là giới hạn thích hợpcủa hoạt động sinh học chất khoáng này hẹp. Tức là liều bổsung thích hợp và liều gây độc của F rất gần nhau, thiếuhoặc thừa F đều có hại đối với cơ thể. Giới hạn cho phépcủa F trong khẩu phần ăn là 2,4 - 4,8mg/kg thực phẩm (giớihạn này cũng áp dụng đối với các chế phẩm bổ sung dinhdưỡng). Giới hạn cho phép F có trong nước ăn sinh hoạthàng ngày là 1,2mg/l. Nếu bổ sung F quá giới hạn sẽ đưađến thừa F gây độc. Một bệnh thừa F hiện nay được nói đếnlà bệnh “nhiễm độc F ở răng” (dental fluorosis). Đây làbệnh xảy ra ở trẻ được bổ sung quá nhiều F trong thời kỳhình thành và phát triển răng vĩnh viễn. Trẻ dễ bị mắc bệnhnhiễm độc F ở răng thường ở tuổi 1 - 4, quá 8 tuổi xem nhưkhông có nguy cơ bị. Bệnh nhiễm độc F ở răng thể hiện cóvệt bẩn màu trắng hoặc vàng ở men răng, kích thước vệtnày to dần và có thể tạo màu nâu. Trên men răng còn xuấthiện các rãnh, bờ bị ăn mòn, răng trở nên dễ vỡ. Bệnh chỉgây tổn thương các răng vĩnh viễn. Nếu bổ sung thừa F dàihạn còn có thể gây “bệnh nhiễm độc F ở xương” (skeletalfluorosis) làm cho xương yếu, biến dạng, dễ gãy. Bệnhnhiễm độc F ở xương còn gây triệu chứng kích thích ruộtvà đau nhức khớp làm dễ chẩn đoán lầm bị bệnh viêm đakhớp dạng thấp.Tóm lại, như bất cứ chất dinh dưỡng nào, F được bổ sunghàng ngày với liều lượng vừa đủ là tốt nhất. Hãy cho trẻ ănuống đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng, giúp trẻ thựchiện các biện pháp vệ sinh nói chung, trong đó có vệ sinhrăng miệng như biết chải răng với kem đánh răng đúngcách, đúng lúc. Chỉ như vậy mới có thể giúp trẻ có đượchàm răng chắc khỏe, đẹp đẽ sau này. Nếu cần, nên đưa trẻđến nha sĩ để khám và được cho lời khuyên thêm về sứckhỏe, vệ sinh răng miệng, nhất là việc bổ sung F.PGS.TS.DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Có phải nhiều Fluor là tốt? Có phải nhiều Fluor là tốt?Hình ảnh trẻ bị sâu rằng dẫn đến trưởng thành sẽ có bộrăng rất xấu là nỗi ám ảnh của nhiều bậc cha mẹ. Mongmuốn con mình sau này có được hai hàm răng trắngbóng, đều như hạt bắp, làm cho nhiều phụ huynh tìmcho được các chế phẩm chứa càng nhiều fluor càng tốtđể cho trẻ sử dụng. Tuy nhiên, có phải dùng nhiều fluor,đặc biệt đối với trẻ là tốt?Vai trò của fluor trong cơ thểHàng ngày, cơ thể chúng ta phải được cung cấp đủ qua thứcăn, thức uống 5 chất dinh dưỡng: chất đạm, chất đường bột,chất béo, vitamin và chất khoáng. Fluor chính là chất dinhdưỡng nằm trong nhóm chất khoáng và là chất khoáng vilượng. Ký hiệu hóa học của fluor là F. Gọi là vi lượng vìhàng ngày cơ thể ta cần rất ít F. Lượng cung cấp qua thứcăn thức uống của F tính bằng miligram (mg), như trẻ 1 - 3tuổi cần 0,7mg F/ ngày, trẻ 4 – 8 tuổi cần 1,0mg F/ngày, trẻtừ 9 tuổi trở lên và người trưởng thành cần 2 - 4mg F/ngày. Bổ sung fluor hàng ngày với liều lượng vừa đủ là tốt nhất.Trong cơ thể, F tham gia vào quá trình phát triển răng, tạongà răng và men răng. Quá trình tích chứa F trong răng(đặc biệt ở men răng) xảy ra khi trẻ còn bé, trong thời giancơ thể bé hình thành và phát triển các răng vĩnh viễn. Fcũng có vai trò quan trọng trong quá trình tạo xương bằngcách ảnh hưởng đến việc điều hòa chuyển hóa canxi vàphosphor. Khi thiếu F sẽ dẫn đến bệnh sâu răng và đối vớixương sẽ dẫn đến bệnh loãng xương. Việc phát hiện mốiliên quan giữa thiếu F và bệnh sâu răng được bắt nguồn từthế kỷ thứ 19 khi người ta quan sát trong răng, đặc biệt ởngà và men răng có chứa F. Năm 1902, người ta phát hiệndùng F có thể khắc phục bệnh sâu răng vì lượng F ở nhữngrăng sâu (nhất là men răng) thấp hơn đáng kể so với bìnhthường. Người ta cũng nhận thấy khi lượng F trong nướcsinh hoạt thấp dưới 0,5mg/l sẽ xảy ra biểu hiện thiếu F màthường gặp nhất là sâu răng.Để phòng chống sâu răng do thiếu F, người ta sử dụng mộtsố biện pháp thông qua bổ sung F qua đường miệng. Nhưtất cả các loại kem đánh răng hiện nay lưu hành trên thịtrường đều chứa F nhằm bổ sung chất khoáng cần thiết này,thông qua có lượng F nhất định được nuốt đưa vào cơ thểkhi ta đánh răng. Hoặc có hẳn các chế phẩm bổ sung dinhdưỡng (còn gọi là thực phẩm chức năng) có chứa F đanglưu hành trên thị trường. Biện pháp bổ sung F quy mô lớnhơn hết là “fluor hóa nước sinh hoạt” tại các thành phố vàtại các nơi mà người ta có thể đưa lượng F thích hợp vàonước ăn hàng ngày (có cả ở nước ta). Bên cạnh đó, cần tạocác điều kiện sống hợp vệ sinh cho trẻ, cung cấp cho trẻchế độ dinh dưỡng hợp lý, có đầy đủ và cân bằng 5 chấtdinh dưỡng kể như trên. Như vậy, để giúp trẻ có hàm răngtốt, không bị sâu răng, không chỉ bổ sung F không thôi làđủ mà phải thực hiện cùng lúc nhiều biện pháp.Cần thiết nhưng không được thừaNhư đã nói ở trên, một đặc điểm của F là giới hạn thích hợpcủa hoạt động sinh học chất khoáng này hẹp. Tức là liều bổsung thích hợp và liều gây độc của F rất gần nhau, thiếuhoặc thừa F đều có hại đối với cơ thể. Giới hạn cho phépcủa F trong khẩu phần ăn là 2,4 - 4,8mg/kg thực phẩm (giớihạn này cũng áp dụng đối với các chế phẩm bổ sung dinhdưỡng). Giới hạn cho phép F có trong nước ăn sinh hoạthàng ngày là 1,2mg/l. Nếu bổ sung F quá giới hạn sẽ đưađến thừa F gây độc. Một bệnh thừa F hiện nay được nói đếnlà bệnh “nhiễm độc F ở răng” (dental fluorosis). Đây làbệnh xảy ra ở trẻ được bổ sung quá nhiều F trong thời kỳhình thành và phát triển răng vĩnh viễn. Trẻ dễ bị mắc bệnhnhiễm độc F ở răng thường ở tuổi 1 - 4, quá 8 tuổi xem nhưkhông có nguy cơ bị. Bệnh nhiễm độc F ở răng thể hiện cóvệt bẩn màu trắng hoặc vàng ở men răng, kích thước vệtnày to dần và có thể tạo màu nâu. Trên men răng còn xuấthiện các rãnh, bờ bị ăn mòn, răng trở nên dễ vỡ. Bệnh chỉgây tổn thương các răng vĩnh viễn. Nếu bổ sung thừa F dàihạn còn có thể gây “bệnh nhiễm độc F ở xương” (skeletalfluorosis) làm cho xương yếu, biến dạng, dễ gãy. Bệnhnhiễm độc F ở xương còn gây triệu chứng kích thích ruộtvà đau nhức khớp làm dễ chẩn đoán lầm bị bệnh viêm đakhớp dạng thấp.Tóm lại, như bất cứ chất dinh dưỡng nào, F được bổ sunghàng ngày với liều lượng vừa đủ là tốt nhất. Hãy cho trẻ ănuống đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng, giúp trẻ thựchiện các biện pháp vệ sinh nói chung, trong đó có vệ sinhrăng miệng như biết chải răng với kem đánh răng đúngcách, đúng lúc. Chỉ như vậy mới có thể giúp trẻ có đượchàm răng chắc khỏe, đẹp đẽ sau này. Nếu cần, nên đưa trẻđến nha sĩ để khám và được cho lời khuyên thêm về sứckhỏe, vệ sinh răng miệng, nhất là việc bổ sung F.PGS.TS.DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tác dụng của Fluor tính chất của Fluor kiến thức y học chuẩn đoán bệnh bệnh ở trẻ nhỏ chăm sóc trẻGợi ý tài liệu liên quan:
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 149 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 123 0 0 -
4 trang 105 0 0
-
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 99 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 75 0 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 48 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 44 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 44 0 0 -
Nước ép quả: Nguồn dinh dưỡng cần thiết cho nhân viên văn phòng
3 trang 41 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 40 0 0