Danh mục

Cơ sở lý thuyết của việc đảm bảo chất lượng?

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 185.63 KB      Lượt xem: 2      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việc đảm bảo chất lượng và xin chứng chỉ ISO 9001 đã trở thành một phong trào ở nước ta, các cơ quan quản lý nhà nước cũng bắt đầu xây dựng hệ thống quản lý chất lượng (quality management system, QMS). Đây là một sự kiện đáng mừng vì chúng ta không thể trở thành một quốc gia công nghệ tiên tiến nếu không đảm bảo được chất lượng của sản phẩm và dịch vụ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cơ sở lý thuyết của việc đảm bảo chất lượng?Cơ sở lý thuyết của việc đảm bảochất lượngViệc đảm bảo chất lượng và xin chứng chỉ ISO 9001 đã trởthành một phong trào ở nước ta, các cơ quan quản lý nhànước cũng bắt đầu xây dựng hệ thống quản lý chất lượng(quality management system, QMS).Đây là một sự kiện đáng mừng vì chúng ta không thể trở thànhmột quốc gia công nghệ tiên tiến nếu không đảm bảo được chấtlượng của sản phẩm và dịch vụ.Tuy nhiên, theo kinh nghiệm tại những xí nghiệp Pháp có nhiềutrường hợp xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng thất bại vìlãnh đạo xí nghiệp không nắm vững những cơ sở lý thuyết củađảm bảo chất lượng.Tiếp cận bằng quy trình Tiêu chuẩn ISO 9001 đòi hỏi những quy trình của doanh nghiệp phải được xác định và mô tả rõ rệt trong sổ tay chất lượng hình 1 (Quality Manual). Nguyên tắc tiếp cận bằngquy trình là một trong tám nguyên tắc quản lý của ISO: “Kết quảmong muốn sẽ đạt được hữu hiệu hơn khi những tài nguyên vàhoạt động được quản lý như là một quy trình”.Chất lượng một sản phẩm tùy thuộc bốn nhân tố thường đượcgọi là 4M: Man (nhân lực), Method (phương pháp), Material(nguyên liệu) và Machine (thiết bị). Những nhân tố đó đượcIshikawa diễn tả trên một biểu đồ hình xương cá (hình 1).Người ta thường dùng biểu đồ Ishikawa để nghiên cứu nguồngốc của một sai sót. Chỉ cần một trong những nhân tố 4M có saisót là sản phẩm sẽ không có chất lượng.Nhưng biểu đồ đó cũng có thể dùng để nghiên cứu một quy trình.Để đảm bảo chất lượng của sản phẩm thì phải quy định nhữngđặc điểm kỹ thuật của các nhân tố 4M. Nếu những đặc điểm đókhông được xác định thích ứng và bố trí kỹ thì quy trình khôngthể diễn tiến được. Khi xây dựng hệ thống quản lý chất lượng,những đặc điểm được miêu tả trong một văn bản được gọi là“Miêu tả quy trình”.Để biểu diễn một quy trình, người ta xếpđặt những nhân tố 4M một cách khác vớibiểu đồ Ishikawa (hình 2). Đầu ra là sản Hình 2 - Biểu đồ mộtphẩm của xí nghiệp. Đầu vào gồm những quy trìnhnguyên liệu xí nghiệp mua để sản xuất.Những tiềm lực của xí nghiệp gồm nhân lực xí nghiệp đã tuyểnvà đào tạo và những thiết bị xí nghiệp đã đầu tư. Những hoạtđộng là chuỗi tác động nối tiếp nhau của phương pháp sản xuất. Chuỗi tác động này trong tiếng Anh gọi là “procedure”, dịch sang tiếng Việt là “trình tự” ở những cơ sở và công trường sản xuất hay “thủ tục” ở những bộ phận Hình 3-4 hành chính.Một cơ sở sản xuất hay một bộ phận hành chính có thể được coilà một quy trình theo định nghĩa của ISO. Quy trình lớn đó có thểđược chia thành một số quy trình nhỏ liên kết với nhau thành mộtmạng (hình 3). Những quy trình nhỏ có thể được chia thành mộtsố quy trình nhỏ hơn (hình 4).Chứng chỉ chất lượngQuy trình thượng lưu thuộc trách nhiệm bên cung cấp sản phẩmvà quy trình hạ lưu thuộc trách nhiệm bên tiếp nhận. Đầu ra củaquy trình thượng lưu liên kết với đầu vào của quy trình hạ lưu. Trước khi xuất hàng, bên cung cấp kiểm tra chất lượng của sản phẩm, nghĩa là kiểm tra đầu ra của quy trình thượng lưu. Nếu bên Hình 5 tiếp nhận không tin cậy ở chất lượng sản phẩm thì sẽ kiểm tra lại sản phẩm đó khinghiệm thu, nghĩa là kiểm tra đầu vào của quy trình hạ lưu. Nhưthế, chất lượng sản phẩm sẽ được kiểm tra hai lần (hình 5).Nếu bên tiếp nhận tin cậy vào chất lượng của sản phẩm đã đượcnghiệm thu thì không cần phải kiểm tra sản phẩm lần thứ hai.Như thế, tổng số chi phí, công lao và thời gian kiểm tra chấtlượng chung cho hai bên sẽ giảm xuống còn một nửa. Nếu quytrình sản xuất là một chuỗi dài quy trình nhỏ thì số lượng kiểm trasẽ được chia đôi và giá thành của sản phẩm sẽ giảm một cáchđáng kể.Để bên tiếp nhận an tâm không phải kiểm tra chất lượng lần thứhai thì bên cung cấp phải đảm bảo chất lượng sản phẩm đã giaovới một hệ thống quản lý chất lượng thích nghi. Bên tiếp nhận cóthể an tâm nếu đã có bằng chứng bên cung cấp có một hệ thốngquản lý đủ đảm bảo chất lượng sản phẩm được giao.Để hai bên tin cậy lẫn nhau, các doanh nghiệp có thể áp dụngphương pháp sau đây:(a) Bên cung cấp viết một bộ tài liệu gọi là sổ tay chất lượng(STCL), miêu tả tất cả những hoạt động sản xuất và kiểm tra củaxí nghiệp.(b) Bên tiếp nhận nghiên cứu STCL để xem những hoạt động sảnxuất và kiểm tra của bên cung cấp có đủ đảm bảo chất lượng sảnphẩm mình muốn đặt mua hay không.(c) Nếu thấy STCL của bên cung cấp vừa ý thì đến thăm cơ sởcủa bên cung cấp để kiểm tra xem họ có thực thi những gì đã viếttrong STCL không.(d) Bên tiếp nhận chỉ an tâm nếu bên cung cấp thực thi đúngnhững gì đã viết trong STCL.Trong thực tế, để tránh trường hợp phải tiếp nhiều đoàn kháchhàng đến kiểm tra, đó là chưa kể có những trường hợp bên tiếpnhận thiếu kiến thức để định giá hệ thống quản lý chất lượng củamình, bên cung cấp có thể nhờ một cơ quan độc lập và có uy tínkỹ thuật, gọi là cơ quan kiểm định chất lượng nghiên cứu STCLcủa mình và kiểm tra việc thực thi STCL. Nếu cơ quan kiểm địnhnhận thấy những hoạt động sản xuất và kiểm tra miêu tả trongSTCL của bên cung cấp có thể đảm bảo chất lượng và STCLđược thực thi thì sẽ cấp một chứng chỉ hệ thống quản lý chấtlượng phù hợp với một tiêu chuẩn.Thông thường, tiêu chuẩn quy chiếu là tiêu chuẩn ISO 9001, gọitắt là chứng chỉ ISO 9001. Tiêu chuẩn quy chiếu của một xínghiệp cung cấp phụ tùng ô tô là tiêu chuẩn ISO/TS 16949, tiêuchuẩn của một xí nghiệp chế biến thực phẩm là tiêu chuẩn ISO22000...Với chứng chỉ phù hợp đó và dựa trên uy tín của cơ quan kiểmđịnh, bên tiếp nhận sẽ không cần phải đích thân kiểm định hệthống ...

Tài liệu được xem nhiều: