Cóc Thái là một loại cây mộc, cũng là cây ăn trái miền nhiệt đới, cùng họ với xoài.Bản địa của cóc Thái là Trung Mỹ từ Mexico xuống Peru, Brasil và Caribe nhưng đã lan rộng khắp vùng nhiệt đới như châu Phi, Ấn Độ, và Nam Dương. Trái cóc Thái sắc xanh lục, có vị chua và dòn. Vỏ cóc Thái dày nhưng mềm. Cóc Thái có thể ăn sống hay đem muối. Cóc Thái già thì thịt nhiều xơ. Trái cóc Thái chấm muối ớt là món quà rong ăn chơi phổ biến trong giới học trò...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cóc TháiCóc TháiCóc Thái là một loại cây mộc, cũng là cây ăn trái miền nhiệt đới, cùng họvới xoài.Bản địa của cóc Thái là Trung M ỹ từ Mexico xuống Peru, Brasil và Caribenhưng đã lan rộng khắp vùng nhiệt đới như châu Phi, Ấn Độ, và NamDương.Trái cóc Thái sắc xanh lục, có vị chua và dòn. Vỏ cóc Thái dày nhưng mề m.Cóc Thái có thể ăn sống hay đem muối. Cóc Thái già thì thịt nhiều xơ. Tráicóc Thái chấm muối ớt là món quà rong ăn chơi phổ biến trong giới học tròtại Việt Nam.Thủ đô nước Thái Lan Bangkok tương truyền là từ chữ makok, tiếng Tháicó nghĩa là cóc mà ra.Với giới thích nhậu thì cóc chua cùng muối ớt sẽ giúp đua cay vài ba xị đế !Cóc hiện đang nghiên cứu trồng tại Florida (Hoa Kỳ) và hy vọng trong thờigian ngắn sắp tới trái Cóc sẽ được cung cấp dồi dào tại những nơi tập trungcủa cộng đồng Việt Nam.Cây cóc được xem là có nguồn gốc tại vùng Melanesia- Polynesia và sau đóđược đến trồng tại các vùng nhiệt đới của cả Cựu lẫn Tân Thế giới. Cây kháphổ biến tại Mã Lai (cây trồng trong vườn), Ấn Độ, Tích Lan. Quả cóc đượcbán khắp các chợ Việt Nam. Cây gia nhập Philippines từ 1915, sau đó trồngtại Queensland (Úc).Cây được đua đến Jamaica vào 1782, và 10 năm sau Thuyền trưởng Bligh đãđưa thêm vào đây một giống cóc khác, gốc từ Hawaii. Cây cóc cũng đượctrồng tại Cuba, Haiti, Cộng Hòa Đominican, nhiều nước Trung Mỹ,Venezuela.Bộ Canh Nông Hoa Kỳ đã nhập cảng hạt giống cóc từ Liberia vào năm 1909(tuy nhiên, theo Wester thì cóc đã được trồng tại Miami (Florida) từ 4 nămtruớc đó). Năm 1911, một số hạt giống khác đã được gửi từ Queensland (Úc)sang Washington. Hiện nay cây cóc đang được trồng và phát triển tại Florida.Tên khoa học và các tên gọi khácSpondias dulcis (hay Spondias cytherea) thuộc họ thực vật Anacardia ceae.Các tên gọi: Tại Anh-Mỹ: Otaheite apple, Tahitian quince, Polynesian plum,Jew plum . Pháp: Pomme cythere (cây cóc= pommier de Cythère). Ðức:Cytherea, Tahiti-Apfel; Tây ban Nha: Cirnela dulce; Thái Lan: makok-farang; Cambodia: mokak..Spondias là tên do Theophrastus đặt cho gia đình thực vật này; Dulcis cónghĩa là vị ngọt hay dịu. Tên Ambarella là tên gọi của quả bằng tiếngBengali.Ðặc tính thực vậtCây cóc thuộc loại cây thân mộc, lớn, mọc nhanh, cao 8-18 m (tại Mỹ châu)thuờng trung bình 9-12 m, phân nhánh nhiều cành dễ gẫy. Lá kép, lẻ, to, dài20-60 cm, mọc ở ngọn nhánh ; lá mang 7-12 đôi lá chét dài 6.25-10 cm, hìnhthuôn tròn; mép lá có răng cưa. Vào đầu mùa khô, lá cây chuyển đổi sangmàu vàng tươi, rụng. Hoa mọc thành chùy to, có thể dài đến 30 cm, chùymang ít hoa thuờng thòng xuống. Hoa nhỏ, màu trắng, có 10 nhị. Quả thuộcloại quả hạch, hình trứng hay hình bầu dục, dài 6-8 cm, rộng 4-5 cm, dangoài vàng-cam; thịt màu vàng-xanh nhạt, giòn, vị chua; Quả mọc thànhchùm từ 2-12 quả, thòng xuống. Hạch khá lớn hình bầu dục có nhiều gaidạng sợi dính chặt với thịt, có 5, 6 ô cách nhau không đều.Ngoài ra còn có loại cóc chua hay cóc rừng (Spondias pinnata) (tên Anh làHog plum), thuộc loại tiểu mộc, rụng lá vào mùa khô. Lá kép, lẻ dài 30-40cm, có 2-5 đôi lá chét quan, hình bầu dục, mép lá nguyên. Hoa mọc thànhchùy rộng, lớn hơn lá, có nhánh dài 10-15 cm. Hoa vàng nhạt. Quả hạchhình trứng màu vàng lớn 5 cm x 3 cm. Quả có vị chua và mùi dầu thông.Giá trị dinh duỡng100 gram quả phần ăn được chứa:- Calories 157- Chất đạm 0.5-08 g- Chất béo 0.28- 1.79 g- Chất carbohydrate 1.2-9.5 g(Chất so=fiber) : 1.1-8.4g- Calcium 0.42 g- Sắt 0.02 g- Magnesium 0.2 g- Phosphorus 0.51 g- Potassium 2 g- Kẽm 1.9 mg- Beta-Carotene 16 mg- Niacin 105 mg- Riboflavine 1.5 mg- Vitamin C 42 mgVề phương diện dinh dưỡng quả Cóc thường được đánh giá là kém hơn Xoài,tuy nhiên nếu để quả chín đúng độ thì vị khá ngon. Quả xanh (lúc còn cứng)có vị hơi vhua, dòn, nhiều nước và khá thơm thoảng mùi của dứa, nhưng nếuđể mềm thì thành hơi nhão và khó cắt. Quả xanh có thể chế tạo thành sauce,ngâm giấ m. Nấu với chút đuờng rồi ép qua rây, cóc có thể so sánh vớiapplesauce, nhưng thơm hơn. Lá non có vị hơi chua được dùng làm salad.Tại Indonesia, lá được hấp chín làm rau ăn với cá khô.Tại Trinidad và Tobago (West Indies), các nhà sản xuất thực phẩm đã dùngnước ép từ quả cóc pha trộn trong một loại yoghurts (từ sữa bò). Loại ya-uanày được đánh giá về hương vị, khẩu vị khá cao và được xem là một nguồncung cấp rất tốt về phosphorus và chất đạm.Thành phần hóa họcNgoài thành phần dinh duỡng trên, một số bộ phận khác còn chứa:Chất nhựa như keo trong màu vàng chứa những đuởng hữu co như D-galactose, D-xylose, L-arabinose, L-fucose, L-rhamnose ; và còn có mono-methyl-glucuronic acid.Hạt chứa nhiều khoáng chất như Calcium, Magnesium, Phosphorus,Potassium, Sulfur.Pectin trong vỏ trái cócNghiên cứu tại ÐH Cameroun, phối hợp với Trung Tâm Nghiên cứu Nantes(Pháp) phân chất vỏ của quả cóc (thường bị vất bỏ) ghi nhận vỏ cóc chứa 9-30% pectin, uro ...