Công nghệ nuôi Hầu trên thế giới
Số trang: 15
Loại file: pdf
Dung lượng: 314.83 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghề nuôi Hầu tuy đã được bắt đầu từ rất lâu (thế kỷ thứ 2 trước công nguyên) nhưng những năm trước thế kỷ 19 phát triển chậm và chỉ thực sự phát triển mạnh vào những năm giữa thế kỷ 20 đến nay. Có nhiều công nghệ nuôi Hầu, có thể tóm tắt như sau: a) Nuôi Hầu đáy: Trong mùa có Hầu giống xuất hiện, người ta sử dụng các vật bám như: gạch, đá, các loại cành cây xếp có trật tự xuống nền đáy vùng bãi triều thấp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Công nghệ nuôi Hầu trên thế giới Công nghệ nuôi Hầu trên thế giới Nghề nuôi Hầu tuy đã được bắt đầu từ rất lâu (thế kỷ thứ2 trước công nguyên) nhưng những năm trước thế kỷ 19phát triển chậm và chỉ thực sự phát triển mạnh vào nhữngnăm giữa thế kỷ 20 đến nay. Có nhiều công nghệ nuôiHầu, có thể tóm tắt như sau: a) Nuôi Hầu đáy: Trong mùa có Hầu giống xuất hiện,người ta sử dụng các vật bám như: gạch, đá, các loại cànhcây xếp có trật tự xuống nền đáy vùng bãi triều thấp. Hầugiống trong tự nhiên bám vào các vật bám và phát triểnthành Hầu thương phẩm. Phương pháp nuôi này được ápdụng phần lớn vào thời kỳ đầu của nghề nuôi Hầu và hiệnnay vẫn còn được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới.Nhược điểm của phương pháp này là Hầu nuôi có tốc độtăng trưởng chậm (phụ thuộc vào thời gian phơi bãi); Quảnlý và khai thác khó khăn, Hầu dễ bị vùi lấp do nền đáy làbùn, cát, tỷ lệ chết cao.Tuy vậy, do phương pháp này rẻtiền, dễ làm nên đến nay vẫn còn nhiều nơi áp dụng nuôiHầu đáy. b) Nuôi treo: còn gọi là phương pháp nuôi giàn, bè.Phương pháp này được đưa ra vào những năm đầu của thếkỷ 20. Theo phương pháp nuôi này, Hầu giống được lấyvào vật bám bằng vỏ sò, điệp, vỏ Hầu, lốp xe hỏng, các tấmngói vỡ… sau đó được san thưa treo thành từng dây dướicác giàn, bè. Ưu điểm của phương pháp này là tốc độ tăngtrưởng của Hầu nhanh (vì thời gian bắt mồi dài không cóthời gian phơi bãi như nuôi đáy), năng suất cao, dễ cơ khíhoá, khai thác dễ dàng. Nhược điểm là chi phí cao, chỉ ápdụng ở những nơi có độ sâu từ 3m – 10 m. Hiện nay phần lớn những nước có nghề nuôi Hầu pháttriển như Nhật Bản, Úc, Pháp, Hàn Quốc... đều áp dụngphương pháp này. Hai phương pháp nuôi đáy và nuôi treo kể trên đều căncứ vào nguồn cung cấp giống từ tự nhiên – vào các mùasinh sản thả vật bám trong các bãi Hầu giống thu giống từtự nhiên sau đó san thưa nuôi thành từng dãy dưới các bè,giàn nuôi. Thời gian từ 1 đến 2 năm có thể thu hoạch được. c) Phương pháp nuôi Hầu túi hoặc khay nhựa: Saunhững kết quả nghiên cứu về sinh học sinh sản. Hầu giốngthu được từ các trại sản xuất giống nhân tạo đã chiếm tỷ lệlớn trong nguồn cung cấp giống. Theo đó phương phápnuôi đơn bắt đầu xuất hiện. Hầu giống được thu vớt, táchriêng từng con một, không cần có giá thể bám, Hầu conđược đưa vào các túi lưới hoặc khay nhựa sau đó treo hoặcvắt ngang trên mặt giàn. Hình thức nuôi này được áp dụngnhiều ở Pháp, Úc. Ưu điểm của phương pháp này: Tốc độtăng trưởng nhanh, khả năng vệ sinh cao, tiện lợi trong sửdụng. Nhược điểm của phương pháp này là chỉ thích hợpvới con giống từ trại sản xuất giống nhân tạo đã được táchrời nhau, chi phí cao. d) Phương pháp nuôi cọc: Hầu giống (cỡ 2 – 3cm) đãđược tách rời từng cá thể riêng, sau đó được gắn trên nhữngcọc đúc sẵn sau đó cọc được cắm xuống nuôi ở vùng bãitriều. Phương pháp này là phương pháp kết hợp giữa nuôiHầu đáy bằng cọc và việc sử dụng Hầu giống từ các nguồnkhác nhau đã được tách rời. Phương pháp này sử dụng đểnuôi Hầu ở vùng bãi triều và trong rừng ngập mặn. Hầukhông bị vùi lấp, dễ khai thác và tận dụng được vùng bãitriều rộng lớn. Các cọc có thể tận dụng nhiều lần, làm giáthành Hầu thương phẩm thấp. So với phương pháp nuôiHầu đáy đơn thuần thì việc nuôi Hầu bằng cọc có ưu điểmhơn nhiều. Trong đó Hầu giống được phân bố đều trên bềmặt cọc nuôi, cọc nuôi được định vị tại những vùng thíchhợp cho sự tăng trưởng cá thể và có thể làm vệ sinh, dichuyển khi cần thiết.4.1.2. Nghề nuôi Hầu ở Việt Nam Nghề nuôi Hầu ở Việt Nam được bắt đầu từ nhữngnăm 1950, trên đối tượng Hầu sông Crassostrea rivularis,do các chuyên gia Trung Quốc và Nhật Bản đã thử nghiệmtrên hệ thống sông Bạch Đằng thuộc vùng Quảng Yên tỉnhQuảng Ninh (Yên Hưng ngày nay). Kết quả đạt sản lượngnuôi là 40 tấn, song do ảnh hưởng của chiến tranh nên việcthí nghiệm nuôi Hầu bị gián đoạn. Tuy vậy, việc nuôi vàkhai thác Hầu cửa sông Crasostrea rivularis ở nước ta chỉtập trung từ vùng biển từ Quảng Ninh đếnThừa Thiên - Huếvới sản lượng hàng năm đạt từ 10.000 - 12.000 tấn/năm vàchủ yếu ở ba vùng Quảng Ninh, Hải Phòng và Thanh Hoávới công nghệ nuôi chủ yếu lấy giống và phát triển tự nhiên(Nguyễn Hữu Phụng, 1999). Hiện nay, các vùng nuôi Hầubao gồm: Quảng Ninh: Có khoảng hơn 300 bãi nuôi đặcsản, trong đó có bãi nuôi Hầu nằm trong địa phận BãiCháy, sông Chanh, Đá Bạc, Đầm Hà. Tổng sản lượng nuôitrung bình hàng năm đạt khoảng 300 tấn Hầu thương phẩm,thị trường tiêu thụ chủ yếu là chợ địa phương, các nhàhàng, cung cấp cho khu du lịch và xuất tiểu ngạch sangTrung Quốc. Nghệ An: Từ xa xưa, tại các cửa lạch (LạchQuèn, Lạch Cờn) huyện Quỳnh Lưu, người dân đã biết lợidụng các hòn đá kè sông, các cầu, cống ở địa phương đểkhai thác Hầu tự nhiên. Đối tượng khai thác chủ yếu là cácloài Hầu cửa sông Crassostrea rivularis, kích cỡ khai tháckhoảng 5 - 15 cm. Hơn thế nữa, tại vùng biển Cửa Lò, đangtiến hành nuôi Hầu C. gigas được nhập giống từ Úc với ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Công nghệ nuôi Hầu trên thế giới Công nghệ nuôi Hầu trên thế giới Nghề nuôi Hầu tuy đã được bắt đầu từ rất lâu (thế kỷ thứ2 trước công nguyên) nhưng những năm trước thế kỷ 19phát triển chậm và chỉ thực sự phát triển mạnh vào nhữngnăm giữa thế kỷ 20 đến nay. Có nhiều công nghệ nuôiHầu, có thể tóm tắt như sau: a) Nuôi Hầu đáy: Trong mùa có Hầu giống xuất hiện,người ta sử dụng các vật bám như: gạch, đá, các loại cànhcây xếp có trật tự xuống nền đáy vùng bãi triều thấp. Hầugiống trong tự nhiên bám vào các vật bám và phát triểnthành Hầu thương phẩm. Phương pháp nuôi này được ápdụng phần lớn vào thời kỳ đầu của nghề nuôi Hầu và hiệnnay vẫn còn được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới.Nhược điểm của phương pháp này là Hầu nuôi có tốc độtăng trưởng chậm (phụ thuộc vào thời gian phơi bãi); Quảnlý và khai thác khó khăn, Hầu dễ bị vùi lấp do nền đáy làbùn, cát, tỷ lệ chết cao.Tuy vậy, do phương pháp này rẻtiền, dễ làm nên đến nay vẫn còn nhiều nơi áp dụng nuôiHầu đáy. b) Nuôi treo: còn gọi là phương pháp nuôi giàn, bè.Phương pháp này được đưa ra vào những năm đầu của thếkỷ 20. Theo phương pháp nuôi này, Hầu giống được lấyvào vật bám bằng vỏ sò, điệp, vỏ Hầu, lốp xe hỏng, các tấmngói vỡ… sau đó được san thưa treo thành từng dây dướicác giàn, bè. Ưu điểm của phương pháp này là tốc độ tăngtrưởng của Hầu nhanh (vì thời gian bắt mồi dài không cóthời gian phơi bãi như nuôi đáy), năng suất cao, dễ cơ khíhoá, khai thác dễ dàng. Nhược điểm là chi phí cao, chỉ ápdụng ở những nơi có độ sâu từ 3m – 10 m. Hiện nay phần lớn những nước có nghề nuôi Hầu pháttriển như Nhật Bản, Úc, Pháp, Hàn Quốc... đều áp dụngphương pháp này. Hai phương pháp nuôi đáy và nuôi treo kể trên đều căncứ vào nguồn cung cấp giống từ tự nhiên – vào các mùasinh sản thả vật bám trong các bãi Hầu giống thu giống từtự nhiên sau đó san thưa nuôi thành từng dãy dưới các bè,giàn nuôi. Thời gian từ 1 đến 2 năm có thể thu hoạch được. c) Phương pháp nuôi Hầu túi hoặc khay nhựa: Saunhững kết quả nghiên cứu về sinh học sinh sản. Hầu giốngthu được từ các trại sản xuất giống nhân tạo đã chiếm tỷ lệlớn trong nguồn cung cấp giống. Theo đó phương phápnuôi đơn bắt đầu xuất hiện. Hầu giống được thu vớt, táchriêng từng con một, không cần có giá thể bám, Hầu conđược đưa vào các túi lưới hoặc khay nhựa sau đó treo hoặcvắt ngang trên mặt giàn. Hình thức nuôi này được áp dụngnhiều ở Pháp, Úc. Ưu điểm của phương pháp này: Tốc độtăng trưởng nhanh, khả năng vệ sinh cao, tiện lợi trong sửdụng. Nhược điểm của phương pháp này là chỉ thích hợpvới con giống từ trại sản xuất giống nhân tạo đã được táchrời nhau, chi phí cao. d) Phương pháp nuôi cọc: Hầu giống (cỡ 2 – 3cm) đãđược tách rời từng cá thể riêng, sau đó được gắn trên nhữngcọc đúc sẵn sau đó cọc được cắm xuống nuôi ở vùng bãitriều. Phương pháp này là phương pháp kết hợp giữa nuôiHầu đáy bằng cọc và việc sử dụng Hầu giống từ các nguồnkhác nhau đã được tách rời. Phương pháp này sử dụng đểnuôi Hầu ở vùng bãi triều và trong rừng ngập mặn. Hầukhông bị vùi lấp, dễ khai thác và tận dụng được vùng bãitriều rộng lớn. Các cọc có thể tận dụng nhiều lần, làm giáthành Hầu thương phẩm thấp. So với phương pháp nuôiHầu đáy đơn thuần thì việc nuôi Hầu bằng cọc có ưu điểmhơn nhiều. Trong đó Hầu giống được phân bố đều trên bềmặt cọc nuôi, cọc nuôi được định vị tại những vùng thíchhợp cho sự tăng trưởng cá thể và có thể làm vệ sinh, dichuyển khi cần thiết.4.1.2. Nghề nuôi Hầu ở Việt Nam Nghề nuôi Hầu ở Việt Nam được bắt đầu từ nhữngnăm 1950, trên đối tượng Hầu sông Crassostrea rivularis,do các chuyên gia Trung Quốc và Nhật Bản đã thử nghiệmtrên hệ thống sông Bạch Đằng thuộc vùng Quảng Yên tỉnhQuảng Ninh (Yên Hưng ngày nay). Kết quả đạt sản lượngnuôi là 40 tấn, song do ảnh hưởng của chiến tranh nên việcthí nghiệm nuôi Hầu bị gián đoạn. Tuy vậy, việc nuôi vàkhai thác Hầu cửa sông Crasostrea rivularis ở nước ta chỉtập trung từ vùng biển từ Quảng Ninh đếnThừa Thiên - Huếvới sản lượng hàng năm đạt từ 10.000 - 12.000 tấn/năm vàchủ yếu ở ba vùng Quảng Ninh, Hải Phòng và Thanh Hoávới công nghệ nuôi chủ yếu lấy giống và phát triển tự nhiên(Nguyễn Hữu Phụng, 1999). Hiện nay, các vùng nuôi Hầubao gồm: Quảng Ninh: Có khoảng hơn 300 bãi nuôi đặcsản, trong đó có bãi nuôi Hầu nằm trong địa phận BãiCháy, sông Chanh, Đá Bạc, Đầm Hà. Tổng sản lượng nuôitrung bình hàng năm đạt khoảng 300 tấn Hầu thương phẩm,thị trường tiêu thụ chủ yếu là chợ địa phương, các nhàhàng, cung cấp cho khu du lịch và xuất tiểu ngạch sangTrung Quốc. Nghệ An: Từ xa xưa, tại các cửa lạch (LạchQuèn, Lạch Cờn) huyện Quỳnh Lưu, người dân đã biết lợidụng các hòn đá kè sông, các cầu, cống ở địa phương đểkhai thác Hầu tự nhiên. Đối tượng khai thác chủ yếu là cácloài Hầu cửa sông Crassostrea rivularis, kích cỡ khai tháckhoảng 5 - 15 cm. Hơn thế nữa, tại vùng biển Cửa Lò, đangtiến hành nuôi Hầu C. gigas được nhập giống từ Úc với ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kỹ thuật nuôi cá kỹ thuật nuôi tôm nuôi trồng thủy sản nuoi hầu nghề nuôi hầuGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 243 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 238 0 0 -
13 trang 226 0 0
-
225 trang 222 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 197 0 0 -
2 trang 195 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 180 0 0 -
91 trang 175 0 0