Danh mục

Corporate Governance - bài học rút ra sau sự kiện Enron – Phần II

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 117.63 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các kiểm toán viên độc lập đóng vai trò quyết định trong việc quản trị công ty. Nếu không có báo cáo kế toán và thông tin tài chính chính xác, thì ngay cả người có thiện chí nhất trong các thành viên HĐQT độc lập cũng sẽ không thể thi hành nhiệm vụ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Corporate Governance - bài học rút ra sau sự kiện Enron – Phần II Corporate Governance - bài học rútra sau sự kiện Enron –Phần IICác kiểm toán viên độc lập đóng vai trò quyết định trong việcquản trị công ty. Nếu không có báo cáo kế toán và thông tin tàichính chính xác, thì ngay cả người có thiện chí nhất trong cácthành viên HĐQT độc lập cũng sẽ không thể thi hành nhiệm vụ.Về khía cạnh này, hoạt động của giới kiểm toán trong thời gianqua thật là đáng thất vọng. Khó khăn chính, cũng như trongtrường hợp các thành viên HĐQT độc lập, là việc bổ nhiệm kiểmtoán viên độc lập hầu như trong tay của ban giám đốc. Trên lýthuyết thì các kiểm toán viên độc lập, tương tự như các thànhviên HĐQT độc lập, được cổ đông bổ nhiệm trong đại hội cổđông. Trong thực tế, thường thì kiểm toán viên nào được tiến cửthì người đó sẽ được bổ nhiệm, mà việc tiến cử này lại do bangiám đốc phụ trách.Công nhận điểm yếu này, NYSE đã kiến nghị tăng cường quyềnlực và trách nhiệm của ủy ban kiểm toán, kể cả việc độc quyềnquyết định thuê mướn hay sa thải kiểm toán viên độc lập. Ủy bankiểm toán phải có một số nhiệm vụ tối thiểu hàng năm là tiếpnhận và xem xét báo cáo của kiểm toán viên độc lập về quy trìnhkiểm soát nội bộ, đánh giá mối quan hệ giữa kiểm toán viên độclập và công ty. Ủy ban kiểm toán cũng phải có quyền được sự cốvấn và hỗ trợ của các nhà cố vấn pháp lý, kế toán và các nhà cốvấn khác không làm cho công ty, tiếp xúc riêng với ban giám đốc,kiểm toán viên nội bộ, kiểm toán viên độc lập và cùng với kiểmtoán viên độc lập rà soát bất kỳ vấn đề hay gút mắc nào về kiểmtoán.Ngoài ra, Quốc hội Hoa Kỳ cũng đã tiến hành các bước nhằmtăng cường sự độc lập của kiểm toán viên. Phần 201(a) của Đạoluật Sarbanes-Oxley năm 2000 được thông qua gần đây, sửa đổiphần 10A của Đạo luật Giao dịch Chứng khoán năm 1934 vàngăn cấm một số công ty kiểm toán có đăng ký cung cấp cùngmột lúc dịch vụ kiểm toán lẫn phi kiểm toán cho bất kỳ công typhát hành nào mà hãng này đang phục vụ. Một số dịch vụ phikiểm toán bao gồm:- Giữ sổ sách kế toán hay các dịch vụ khác liên quan đến hồ sơkế toán hay báo cáo tài chính của khách hàng đang được kiểmtoán;- Thiết kế và thực hiện các hệ thống thông tin tài chính;- Quản lý công ty hay quản lý nhân lực;- Môi giới, tự doanh, cố vấn đầu tư, hay làm dịch vụ ngân hàngđầu tư;- Cung cấp dịch vụ pháp lý và các dịch vụ chuyên môn không liênquan đến việc kiểm toán;- Đối với các dịch vụ phi kiểm toán khác, như các dịch vụ về thuế,thì phải được sự chấp thuận trước của ủy ban kiểm toán của nhàphát hành cổ phiếu.Việc cấm đoán các công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ tư vấnhay các dịch vụ khác cho khách hàng được họ kiểm toán sẽ cótác dụng phần nào trong việc phục hồi sự độc lập của kiểm toánviên, nhưng tự nó không thể hoàn toàn giải quyết vấn đề. Với mộtsố công ty kiểm toán bị cáo buộc là cẩu thả trong việc kiểm toán,có lẽ các kiểm toán viên sẽ chú ý hơn rất nhiều đến việc kiểmtoán cho khách hàng của họ, ít nhất là trong tương lai gần.Những sự cấm đoán và khó khăn liên quan đến công việc phikiểm toán cũng sẽ góp phần giúp các kiểm toán viên tập trunghơn vào công việc chính của mình.Việc phân tích và theo dõi tài chính do các tổ chức chuyênmôn thực hiệnMột cơ chế điều tiết dựa chủ yếu vào quá trình minh bạch hóathông tin thay vì kê khai thành tích đơn thuần dẫn đến sự ra đờicủa các định chế tài chính chuyên môn theo dõi hoạt động củacác công ty cổ phần, và sự phân tích của họ về thành tích hoạtđộng, vị thế tài chính, triển vọng của các công ty này có tác dụngkiềm chế ban giám đốc và cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhàđầu tư. Sự theo dõi tài chính mà các định chế này thực hiện cótác dụng áp đặt kỷ luật thị trường lên các công ty bằng cách trừngphạt các công ty nào không minh bạch và yếu kém trong quản trịTrong thời kỳ hậu-Enron, có sự hoài nghi đáng kể về sự “vô tư”của các nhà phân tích, đặc biệt những người gắn kết với cácngân hàng đầu tư hay các định chế cung cấp dịch vụ cho cáccông ty đang và sẽ niêm yết. Như thường lệ, thủ phạm chính làsự xung đột về lợi ích; sự xung đột phát sinh khi các định chế vừamuốn cung cấp thông tin khách quan cho công chúng nhưngđồng thời lại cung cấp một số dịch vụ cho các công ty họ đangxem xét và sinh lợi rất lớn từ đó. Trường hợp gây ác cảm nhất cólẽ là trường hợp của Henry Blodget, một trong những nhà phântích tài chính của Merrill Lynch trước đây, người đã từng khuyênkhách hàng đầu tư mua các cổ phiếu mà trong nội bộ ông ta môtả là rủi ro cao và rác rưởi.Trước những công kích của dư luận, các định chế tài chính nàybắt đầu dựng lên những rào cản mà họ ví von là vạn lý trườngthành giữa bộ phận phân tích và bộ phận giao dịch với kháchhàng. Tuy nhiên, tác giả bài này quan niệm rằng, các rào cản làquá dễ bị xâm phạm để khách hàng có thể thực sự an tâm, vàcác biện pháp như thế ch ...

Tài liệu được xem nhiều: