Cử án tề miĐời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ, khí tiết, giữ đạo thanh bần cao đẹp. Đức hạnh, tài năng của chàng được người khâm phục, nổi tiếng khắp nơi. Ở vùng địa phương có nàng Mạnh Quang vốn dòng nho gia giàu có nhứt vùng. Nàng tính nết đoan trang đức hạnh, đương độ kén chồng. Nhiều người thân hỏi, nàng trả lời rằng chỉ có người hiền đức...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cử án tề mi Cử án tề miĐời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng.Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biếttrọng liêm sỉ, khí tiết, giữ đạo thanh bần cao đẹp. Đức hạnh, tài năng của chàngđược người khâm phục, nổi tiếng khắp nơi.Ở vùng địa phương có nàng Mạnh Quang vốn dòng nho gia giàu có nhứt vùng.Nàng tính nết đoan trang đức hạnh, đương độ kén chồng. Nhiều người thân hỏi,nàng trả lời rằng chỉ có người hiền đức như Lương Hồng mới xứng đáng là chồng.Thấy nhà họ Mạnh đạo đức, Lương Hồng cùng nàng Mạnh Quang kết nghĩa đávàng.Khi làm lễ thành hôn, nàng Mạnh Quang mặc xiêm y lộng lẫy, trang sức toàn vàngngọc đắt tiền, cốt làm đẹp cho chàng vừa ý. Nào ngờ trông thấy vợ trang sức rựcrỡ, Lương Hồng không bằng lòng, bảy ngày đêm, chàng không làm lễ động phònghoa chúc.Nàng Mạnh Quang lấy làm lạ, kiểm điểm lại lời nói cử chỉ của mình không tỏ vẻgì vô lễ. Nghĩ mãi, nàng ngờ rằng vì nàng trang sức lộng lẫy mà chồng khôngbằng lòng chăng. Nàng liền trút bỏ lớp áo quần tốt đẹp, đồ trang sức ngọc vàng, đểmặc y phục vải bô, cài thoa gai ra hầu chồng.Thấy vợ như thế, Lương Hồng vui vẻ nói:- Đây mới chính là vợ của ta. Hồng này không màng danh lợi, không ham của bạcvàng. Hồng chỉ muốn cùng vợ cày lấy ruộng, trồng lấy lúa, dệt lấy vải, sinh sốngtrong cảnh nghèo mà lúc nào cũng giữ tròn khí tiết, đạo đức, vợ lúc nào cũng kínhtrọng chồng và chồng lúc nào cũng nể yêu vợ.Mạnh Quang nghe chồng nói rất lấy làm vui vẻ. Nàng đối với chồng rất mực cungkính. Mỗi bữa cơm, đối diện, nàng nâng mâm ngang mày để tỏ lòng kính trọngchồng.Trong tác phẩm Nhị độ mai, tác giả Vô danh, đoạn diễn tả cảnh Hoài Nguyên đicống Hồ có làm bài thơ tặng tình nhân là Mai Lương Ngọc lúc chia ly, có câu:Ngang mày Mạnh thị chưa nâng án,Thấy mặt Chiêu Quân đã mất tranh.Mạnh thị đây chỉ nàng Mạnh Quang. Về sau, những nhà có hôn lễ, nhà traithường viết 4 chữ Cử án tề mi dán ở cửa phòng, chỉ rằng người vợ hiền đức.Trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh của cụ Nguyễn Du, lúc Kiều sang chơinhà Kim Trọng, chàng nho sinh này có chiều âu yếm lả lơi, Kiều sợ chàng đi quávòng lễ giáo, mới có câu khuyên:Vẻ chi một đóa yêu đào,Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.Đã cho vào bực bố kinh.Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.Bố kinh là Bố quần, kinh thoa, nghĩa là quần bằng vải, trâm cài đầu bằng gai,chỉ người vợ hiền đức.Đông sàng với thiếp Lan ĐìnhĐời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một ngườirể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo xem trong đám học sinh, cóngười nào xứng đáng không.Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì người ấy đáp:- Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnhbao, ganh đua nhau, ra dáng nề nếp; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréochân nằm ở giường phía đông.Khước Giám bảo:- Người ấy mới thật đáng rể ta.Đoạn chọn làm rể. Người đó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân,có tài viết chữ đẹp hơn cả thiên hạ.Đông sàng là giường phía đông, chỉ người rể quý, rể đông sàng.Trong Nhị độ mai có câu:Có Tây Tử Đô, thiếu đông sàng nào là do điển tích trên.Vương Hy Chi, tự Dật Thiếu. Vì làm quan đến chức Hữu quân nên thường gọi làVương Hữu Quân. Tương truyền Vương tập viết chữ bên bờ ao, sau nước ao đenngòm những mực.Lối chữ Khải của Vương được người đời cho là lối chữ đẹp nhất từ xưa đến nay.Người đời thường khen bút thế của Vương lướt như mây bay, mạnh như rắn lộn.Trong các bản bút thiếp của Vương để lại có bản Lan Đình tập tự viết ngày 3tháng 3 năm Vĩnh Hòa thứ 9 đời nhà Tấn (337) được hậu thế quý trọng, cho làmmẫu mực để tập theo. Những bản Lan Đình tập tự có lưu hành nhưng có lẽ đó lànhững bản phỏng theo. Bản chính đã thất lạc từ sau đời nhà Đường (618-907).Ngày nay, trong các lối chữ Hán có lối chữ Lan Đình; đó tức là lối chữ phỏngtheo chữ viết của Vương Hy Chi trong Lan đình tập tự.Trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đoạn nói về Kiều bị Hoạn Thưcho ra tu ở Quán Âm các để chép kinh, Hoạn Thư khen chữ viết của Kiều, có câu:Khen rằng: Bút pháp đã tinhSo vào với thiếp Lan Đình nào thua!Ý nói chữ viết tốt ngang với chữ của Vương Hy Chi. ...