Thông tin tài liệu:
Vỏ cơ thể Vỏ ngoài của giáp xác có hàm lượng chất kitin cao và tỷ lệ protein không hoà tan cao so với prôtein hoà tan (actropodin). Do lớp epicuticun không có lớp sáp đặc trưng nên có thể thấm nước dễ dàng. Lớp này có thể ngấm thêm các muối can xi (cácbônat hay phốtphat) ở trạng thái không định hình hay tinh thể nên vỏ rất cứng (tôm, cua).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đặc điểm cấu tạo vỏ, hệ hô hấp, hệ tiêu hoá của Giáp xác Đặc điểm cấu tạo vỏ, hệ hô hấp, hệ tiêu hoá của Giáp xác1. Vỏ cơ thểVỏ ngoài của giáp xác có hàm lượng chất kitincao và tỷ lệ protein không hoà tan cao so vớiprôtein hoà tan (actropodin). Do lớp epicuticunkhông có lớp sáp đặc trưng nên có thể thấmnước dễ dàng. Lớp này có thể ngấm thêm cácmuối can xi (cácbônat hay phốtphat) ở trạng tháikhông định hình hay tinh thể nên vỏ rất cứng(tôm, cua).Vỏ giáp của giáp xác sống nổi còn có thêmnhiều lông, gai để tăng diện tiếp xúc với nước.Các mấu lồi trong (apoderma) của vỏ sẽ hìnhthành nên bộ xương trong làm chỗ bám cho cơđiều khiển các hoạt động của phần phụ. Giápxác có màu sắc do các sắc tố tạo nên. Lớp sắctố này có thể nằm trong lớp cuticun hay trongcác tế bào mang sắc tố (chromatophore). Sắc tốchủ yếu là một hỗn hợp gọi caroten làzooerythrin. Ở giáp xác cao còn có guanin(monôaminô – mônôxypurin) coi như sắc tốtrắng. Sắc tố cyanocristalin quyết định màu lơcủa tôm hùm, khi bị đun nóng cyanocristalin sẽbiến thành zooerythrin có màu đỏ do vậy khiluộc hay rang của, tôm thì chúng chuyển sangmàu đỏ tươi .2. Hệ hô hấpMang nằm ở các đôi chân ngực hay chânbụng, có dạng tấm hay dạng sợi. Hoạt độnghô hấp nhờ dòng nước chảy liên tục qua Ở thấp (Copepoda,mang. giáp xácOstracoda...) thì không có cơ quan hô hấp riêngbiệt. Do cơ thể nhỏ bé, lớp cuticun mỏng nên cóthể thực hiện trao đổi khí qua bề mặt cơ thể.3. Hệ tiêu hoáHệ tiêu hoá của giáp xác phát triển và phân hoánhiều hơn so với giun đốt, có sự dịch chuyểncủa lỗ miệng về phía sau và râu I, râu II về phíatrước. Hệ tiêu hoá là một ống thẳng hay hơicong về phía bụng, có 3 phần là ruột trước, ruộtgiữa và ruột sau. Hậu môn ở mặt bụng của đốtcuối.Phần trước của ống tiêu hoá có lát 1 lớp cuticunkhá dày để nghiền thức ăn, ở nhóm Mười chân(Decapoda) thì phát triển thành cối xay vị như ởTôm càng thì có 3 gờ cuticun dọc, gờ giữa lớnhơn. Ruột giữa thường đơn giản và có tuyếngan - tụỵ. Gan có hình dạng khác nhau như hìnhống ở nhóm Copepoda và Amphipoda, dạngkhối như ở nhiều nhóm khác. Chất tiết của gangiáp xác không chỉ biến lipit thành nhũ tương(như tác dụng của mật) mà còn biến protit thànhpepton và biến tinh bột thành đường. Ở một sốgiáp xác thấp ruột giữa còn có màng lót cuticunbảo vệ ruột như ở Có móc. Ruột sau là một ốngthẳng, không có tuyến phụ, một số loài nhưthuộc giáp xác Bơi nghiêng (Amphipoda) ranhgiới giữa ruột giữa và ruột sau có thêm một đôiống bịt đầu làm nhiệm vụ bài tiết (được gọi làống malpighi). Ruột của một số loài giáp xác kýsinh như Sacculina tiêu giảm.Hương Thảo (theo giáo trình ĐVKXS)