Danh mục

Đặc điểm của Ngao/Nghêu (clams)

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 245.77 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ngao, Nghêu là những loài thuộc họ Ngao (Veneridae), phân bố rộng rãi khắp thế giới. Họ Ngao có khoảng trên 500 loài, ở nước ta có khoảng 40 loài thuộc 7 giống, phân bố dọc bờ biển từ Bắc tới Nam. Trong đó các loài có giá trị kinh tế là Ngao dầu (Meretrix meretrix), Ngao mật (M. lusoria) và Nghêu Bến Tre (M. lyrata).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đặc điểm của Ngao/Nghêu (clams) Đặc điểm của Ngao/Nghêu (clams)Ngao, Nghêu là những loài thuộc họ Ngao (Veneridae),phân bố rộng rãi khắp thế giới. Họ Ngao có khoảng trên500 loài, ở nước ta có khoảng 40 loài thuộc 7 giống, phânbố dọc bờ biển từ Bắc tới Nam. Trong đó các loài có giá trịkinh tế là Ngao dầu (Meretrix meretrix), Ngao mật (M.lusoria) và Nghêu Bến Tre (M. lyrata).Hình 12. Hình thái cấu tạo của NgaoĐặc trưng chung của các loài thuộc họ Ngao như sau: Vỏdày chắc, hai vỏ bằng nhau, mặt vỏ có hoa vân, vòng đồngtâm hay tia phóng xạ biến đổi rất lớn. Khớp bản lề có 3răng giữa và 2 răng bên. Vịnh màng áo nông, vết mépmàng áo rõ ràng. Vết cơ khép vỏ trước nhỏ hình bánnguyệt, vết cơ khép vỏ sau lớn hình bầu dục.- Ngao dầu Meretrix meretrix Line, 1758 (Asiatic hardclam). Vỏ lớn , chắc chắn, mép lưng có hình tam giác, mépbụng hình tròn. Hai vỏ bằng nhau, chiều dài lớn hơn chiềucao. Đỉnh vỏ lồi nằm ở mặt lưng, gần về phía trước. Mặt vỏphồng to, nhẵn bóng, có một lớp bì vỏ màu vàng nâu bóngnhư dầu. Vòng sinh trưởng mịn, rõ ràng, từ đỉnh vỏ xuốngthường có những vòng màu nâu. Vân hoa trên mặt vỏ thayđổi tuỳ theo cá thể: Ngao nhỏ vân hoa phong phú và rấtbiến đổi, Ngao lớn hoa vân tương đối ổn định, thường ởphần gần mép lưng, có những vân hoa màu nâu dạng răngcưa hay dạng sóng. Cá thể trưởng thành dài 95 mm, cao 78mm, rộng 36 mm- Ngao mật Meretrix lusoria Rumphius. Vỏ dày chắc, dạngrất giống Ngao dầu, hình tam giác. Ngao mật có một sốđiểm khác với Ngao dầu: Đỉnh vỏ gần như ở mặt lưng, mépsau vỏ kéo dài và vuốt nhọn như góc mái nhà. Da vỏ lángmàu vàng sữa, hoặc màu vàng hơi tím. Vỏ cá thể trưởngthành dài 62 mm, cao 49 mm, rộng 28 mm- Nghêu Bến Tre Meretrix lyrata Sowerby, 1851 (LyrateAsiatic hard clam). Vỏ có dạng rất giống Ngao dầu, nhưngcơ thể nhỏ hơn. Mặt ngoài vỏ màu vàng sữa, một số cá thểmàu nâu. Gờ sinh trưởng thô. Vỏ cá thể trưởng thành dài 55mm. Thân Ngao đối xứng hai bên và có màng áo bao bọc.Phần giữa của màng áo rất mỏng nên thấy rõ các cơ quanbên trong, nhưng mép lại rất dày và có nhiều mấu lồi cảmgiác. Phần lưng màng áo dính nhau, hai vạt áo bao quanhcác cơ bên trong và tạo thành xoang màng áo. Ngoài ra, ởphía sau gần bụng, mép hai vạt áo hai bên lại dính nhau tạothành hai vòi nước.Vòi nằm phía bụng là vòi nước vào, vòi nằm phía lưng làvòi nước ra. Đầu các vòi có nhiều xúc tu. Ngao thường vùithân trong cát, thò vòi nước lên cát để tiến hành hô hấp, bắtmồi và bài tiết. Chân Ngao nằm ở phía bụng rất lớn hìnhlưỡi dùng để đào cát. Cấu tạo của chân gồm có 3 lớp, hailớp ngoài cấu tạo đơn giản, lớp thứ ba cấu tạo rất phức tạp,ngoài là cơ vòng, trong là cơ ngang pha lẫn cơ dọc và cơvòng. Trong các lớp cơ chân có tuyến chân phát triển. Cơkhép vỏ gồm có một đôi bó cơ rất phát triển nằm ở mặtlưng phía trước và sau vỏ, chia làm cơ khép vỏ trước và cơkhép vỏ sau. Cơ khép vỏ sau lớn hơn cơ khép vỏ trước.Ngao dầu phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc (Nam Định,Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An), trong khi Nghêu phân bốở các tỉnh phía Nam (Bến Tre, Tiền Giang), còn Ngao mậtlại phân bố ở các tỉnh miền Trung (Đà Nẵng, Bình Định,Khánh Hoà, Bình Thuận).Ngao, Nghêu phân bố rộng trên bãi triều, độ sâu khoảng 1,5– 4 m. Chất đáy là cát pha bùn, trong đó cát khoảng 60 –80%. Nếu đáy tuyền bùn Ngao dễ bị chết ngạt dưới bùn;đáy cát thuần Ngao không sống được vì khô và nóng. Nhiệtđộ sinh sống của Ngao từ 3 – 39oC (phạm vi nhiệt độ vậnđộng của tiêm mao trên mang). Nhưng nhiệt độ từ 10oC trởlên vỏ Ngao mới lớn lên được. Nhiệt độ thích hợp là 20oC.Vì vậy, mùa đông Ngao lớn chậm, cuối mùa xuân đầu mùahè, Ngao lớn nhanhNgao là loài sống đáy và dùng chân rất phát triển để đào cátvùi mình xuống ở. Muốn hô hấp và dinh dưỡng Ngao thòvòi nước lên mặt bãi hình thành một lỗ nhỏ hình bầu dụcmàu vàng nhạt. Nhìn lỗ ta có thể biết được chổ ở của Ngaođể khai thác. Vòi Ngao ngắn nên Ngao không thể chuiđược sâu như phi và thường chỉ ẩn cách mặt đất chừng vàiphân. Trời lạnh Ngao mới chui xuống sâu hơn nhưng vẫnkhông quá 10 cm. Hiện tượng ngao di chuyển nổi trong nước: Khi gặpbiểu hiện môi trường không tíich hợp, ngao có thể nổi lêntrong nước và di chuyển tới vùng khác bằng cách tiết ramột túi nhầy hoặc một dải chất nhầy để giảm nhẹ tỷ trọngcơ thể và nổi lên được trong nước và theo dòng nước triềudi chuyển tới nơi khác. Ngao có thể nổi lên ở độ cao 1,2m.Ngao thường di chuyển vào mùa hạ, mùa thu. Mùa hạ ngaosống ở vựng triều cao, bãi cạn chịu thời gian chiếu nắng dàilàm cho bãi cát nóng lên ngao phải di chuyển theo nướctriều rút xuống vùng sâu hơn. Mùa thu nhiệt độ hạ dần, gióthổi liên tục làm cho nhiệt độ giảm nhanh ngao không chịuđược phải di chuyển xuống vùng sâu. Mặt khác, sự dichuyển của ngao cũng có quan hệ tới sinh sản. Khi ngaolớn tới 5-6cm ở giai đoạn sinh dục thành thục ngao thườngdi chuyển nhiều. Đặc điểm này phải được hết sức chú ý,giữ không cho ngao đi mất. Người ta thường dùng dâycước sợi 3 x 3 c ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: