Danh mục

Đánh giá ảnh hưởng của ba loại chiết xuất thảo dược đến sự biểu hiện gen của tế bào cá mú Epinephelus coioides

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 517.45 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong nghiên cứu thử nghiệm đối với ba loại chiết xuất từ thảo dược (Houttuynia cordata, Polygonum cuspidatum và Astragalus spp.) nhằm khảo sát khả năng ảnh hưởng đến sự biểu hiện gen trên tế bào GK của cá mú bông. Thí nghiệm được tiến hành với 3 nồng khác nhau ở thảo dược Houttuynia cordata và Polygonum cuspidatum (1μL; 5μL và 10μL), 2 nồng độ với Astragalus spp..
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá ảnh hưởng của ba loại chiết xuất thảo dược đến sự biểu hiện gen của tế bào cá mú Epinephelus coioides VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA BA LOẠI CHIẾT XUẤT THẢO DƯỢC ĐẾN SỰ BIỂU HIỆN GEN CỦA TẾ BÀO CÁ MÚ Epinephelus coioides Võ Bích Xoàn1*, Ming Wei-Lu1 TÓM TẮT Trong nghiên cứu thử nghiệm đối với ba loại chiết xuất từ thảo dược (Houttuynia cordata, Polygonum cuspidatum và Astragalus spp.) nhằm khảo sát khả năng ảnh hưởng đến sự biểu hiện gen trên tế bào GK của cá mú bông. Thí nghiệm được tiến hành với 3 nồng khác nhau ở thảo dược Houttuynia cordata và Polygonum cuspidatum (1μL; 5μL và 10μL), 2 nồng độ với Astragalus spp.. Kết quả biểu hiện các gen IgD, IgM, MHC-II, IL1-β, Mx, TNF α, MHC-I, C3 và IL6 của tế bào GK có sự khác nhau đối với từng loại thảo dược ở các nồng độ khác nhau. Đối với hai loại thảo dược Huottuynia cordata và Polygonum cuspidatum, các gen được phân tích khả năng biểu hiện sau 24 giờ thí nghiệm cho kết quả tương đương nhau chủ yếu với các gen IgD, IgM, MHC-II, IL1-β, Mx, và TNF α gene. Ở thí nghiệm đối với Astragalus spp, kết quả miêu tả rằng có 5 loại gen được biểu hiện là IgD, IgM, MHC-II, IL1-β và Mx. Trong các gen biểu hiện thì IgD là cao nhất so với các gen khác. Từ khoá: Cá mú bông, Epinephelus coioides, thảo dược, gen. I. ĐẶT VẤN ĐỀ mắc các bệnh truyền nhiễm và không lây nhiễm Cá mú là một loài ăn thịt, tăng trưởng nhanh, (Chua và ctv., 1994; Fukada và ctv., 1999) dẫn chất béo tốt nên được quan tâm đặc biệt ở nhóm đến tổn thất kinh tế nghiêm trọng (Lee, 1995; cá biển trong nuôi trồng thuỷ sản. Cá mú được Yet và ctv., 2008 ) cả trong các trang trại và trại xem là một trong số đối tượng hản sản có giá trị sản xuất giống. Các bệnh do vi-rút, vi khuẩn và cao ở Châu Á bởi chất lượng thịt của chúng. Ở ký sinh trùng dường như là những rào cản quan Châu Á, cá mú chấm cam, Epinephelus coioides trọng nhất có thể ảnh hưởng đến nuôi cá mú ở là một loại hải sản phổ biến với giá thương Đài Loan. Sự tổn thất kinh tế ngày càng tăng do phẩm cao và là loài nuôi biển có giá trị kinh dịch bệnh cho thấy sự cần thiết phải phát triển tế cao không chỉ ở Đài Loan mà còn ở một số các chiến lược phòng và kiểm soát bệnh mới. nước khác như Trung Quốc, Indo và Thái Lan Các loại thảo mộc Trung Quốc đóng một (Pierre và ctv., 2008; Chen và ctv., 2007). vai trò quan trọng trong phòng và trị bệnh đối Nuôi cá mú ở Đài Loan có một lịch sử hơn với bệnh thủy sản. Có một số nghiên cứu để sử ba mươi năm và hầu hết là hình thức nuôi ao dụng các loại thảo mộc Trung Quốc trên các ở khu vực Đài Trung và Đài Nam trong khi bệnh cá mú. Lợi ích của việc sử dụng các loại đó hình thức nuôi bè chủ yếu ở Bành Hồ Đài thảo mộc Trung Quốc là chi phí thấp và không Loan. Có khoảng mười loài được nuôi thương ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trong những mại và bảy loài có sản lượng nuôi lớn ở Đài năm gần đây, nhiều thí nghiệm đã được thực Loan trong đó có loài cá mú chấm cam. Loài hiện với chiết xuất thảo dược trên nhiều loài này được nuôi thành công vào năm 1981. Năm cá quan trọng về mặt kinh tế, vì chiết xuất thảo 1991, sản xuất giống hàng loạt và trở thành một dược cũng như các chất kích thích miễn dịch trong những loài cá biển quan trọng nhất ở Đài truyền thống có thể được áp dụng trong nuôi cá Loan. Tổng sản lượng nuôi cá mú Đài Loan để thay thế thuốc kháng sinh và hóa trị liệu. Theo năm 2013 đạt 25,749 tấn và có giá trị 6.825 tỉ Yin và ctv., 2008, các loại thảo mộc đã được sử Đài tệ (Liu và ctv., 2015; Young và ctv., 2015). dụng làm thuốc chống lại một số bệnh. Các loại Tuy nhiên, nuôi cá mú thâm canh dẫn đến tỷ lệ thảo mộc có chứa nhiều thành phần hoạt tính 1 Phân viện Nghiên cứu Thủy sản Nam sông Hậu, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. * Email: xoangiang@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 12 - THÁNG 12/2018 29 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II miễn dịch như polysaccharides, axit hữu cơ, II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP alkaloids, glycosides và dầu dễ bay hơi, có 2.1. Vật liệu nghiên cứu thể tăng cường chức năng miễn dịch chống Nghiên cứu được thực hiện tại khoa thuỷ sản lại vi sinh vật gây bệnh (Yin và ctv., 2008; trường đại học Hải Dương quốc gia Đài Loan. Dhayanithi và ctv., 2013, Novriadi và ctv., Các hoá chất dùng trong nghiên cứu: tế bào thận 2014). Trong nuôi trồng thủy sản thương mại, của cá mú bông GK, virus gây bệnh buồn ngủ kháng sinh được sử dụng để phòng ngừa và trên cá mú GIV, ba loại chiết xuất từ thảo dược kiểm soát bệnh, nhưng chi phí rất tốn kém. (Houttuynia cordata, Polygonum cuspidatum Một số nghiên cứu đã được thực hiện để tìm và Astragalus spp.), môi trường dinh dưỡng cho ra các hợp chất mới từ các nguồn thực vật nuôi tế bào cá mú, môi trường trizol reagent, với giá rẻ và tốt nhất để ngăn chặn các bệnh 70% alcohol, chloroform, isopropanol, dung gây ra các sinh vật trong nuôi trồng thủy sản. dịch PBS và một số dung dịch dùng trong ly Nhiều loại thảo mộc đã được sử dụng như là ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: