Đánh giá biến động thành phần loài, mật độ cá bột và cá con ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2019
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.45 MB
Lượt xem: 6
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nguồn lợi cá nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long liên quan mật thiết với nguồn lợi cá của lưu vực sông Mê Công. Nhiều loài cá di cư ở lưu vực sông Mê Công tập trung sinh sản vào đầu mùa lũ, trứng và cá bột được trôi dạt từ thượng nguồn hay các bãi đẻ theo dòng nước phân tán vào các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ để ẩn náu, sinh trưởng và phát triển.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá biến động thành phần loài, mật độ cá bột và cá con ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN LOÀI, MẬT ĐỘ CÁ BỘT VÀ CÁ CON Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NĂM 2019 Trần Thúy Vy 1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Huỳnh Hoàng Huy1 và Đinh Trang Điểm1 TÓM TẮT Nguồn lợi cá nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long liên quan mật thiết với nguồn lợi cá của lưu vực sông Mê Công. Nhiều loài cá di cư ở lưu vực sông Mê Công tập trung sinh sản vào đầu mùa lũ, trứng và cá bột được trôi dạt từ thượng nguồn hay các bãi đẻ theo dòng nước phân tán vào các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ để ẩn náu, sinh trưởng và phát triển. Nghiên cứu quan trắc nguồn lợi cá bột nhằm đánh giá nguồn lợi thủy sản ở lưu vực cũng như có thể dự báo được sự biến động nguồn lợi thuỷ sản. Cá bột và cá con ở sông Tiền và sông Hậu gần biên giới Việt Nam và Campuchia được thu mẫu hàng ngày từ 01/06/2019 đến 30/09/2019 tại thời điểm nước ròng bằng hai loại ngư cụ Lú và Đáy. Mẫu cá được lưu trữ trong keo nhựa với nồng độ cồn 70%, và sau đó mẫu được định danh và phân tích tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Tổng cộng 928 mẫu được phân tích, và kết quả phân tích đã xác định được 128 loài thuộc 11 bộ và 32 họ, trong đó 73 loài ở sông Hậu và 118 loài ở sông Tiền. Số loài cao nhất vào tháng 9 với 94 loài, họ cá chép phong phú nhất chiếm 38% tổng số loài. Mật độ trung bình cá bột và cá con đạt cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 lần lượt là 22 cá thể/1.000 m3 nước và 27 cá thể/1.000 m3 nước. Xu hướng thành phần loài tăng dần từ đầu mùa lũ đến cuối mùa lũ, trong khi đó mật độ cá thể có biến động giảm theo chiều ngược lại. Từ khóa: Biến động, cá bột và cá con, mật độ, thành phần loài, sông Tiền và sông Hậu. I. ĐẶT VẤN ĐỀ hiện từ năm 1999 đến 2003. Kết quả chỉ ra rằng Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua 2 có 127 loài, bao gồm 123 loài ở sông Tiền và 84 nhánh sông Tiền (dài 150 km) và sông Hậu (dài loài ở sông Hậu thuộc 29 họ thuộc 10 bộ. Chế độ 190 km) tạo nên một lưu vực vùng Đồng bằng dòng chảy, mực nước lũ, quy luật ngày đêm có sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng diện tích gần liên quan đến mật độ cá bột và cá con (Nguyễn 40.550 km2, chiếm khoảng 12% diện tích cả Thanh Tùng, 2004). Định dạng và phân loại các nước. Nguồn lợi cá nước ngọt ở ĐBSCL có liên giai đoạn của cá bột gặp rất nhiều khó khăn vì quan mật thiết đến các khu vực cư trú, các bãi các thành phần cơ thể của cá chưa phát triển đầy đẻ, đặc biệt là các vùng cư trú của chúng thuộc đủ do đó hầu hết mẫu được định danh chủ yếu các chi lưu vực sông Mê Công ở thượng nguồn. đến họ và đến giống. Những nghiên cứu trước Vào đầu mùa lũ bắt đầu vào khoảng tháng 5 – 6 đây về phân loại cá ở ĐBSCL chủ yếu tập trung hàng năm, đây được xem là mùa sinh sản tập vào các loài cá trưởng thành (Mai Đình Yên và trung của các loài cá trên thượng nguồn, cá bột ctv., 1985, 1992; Trương Thủ Khoa và Trần Thị và cá con di cư thụ động theo dòng nước về Thu Hương, 1993). Nghiên cứu các giai đoạn phía hạ lưu. Sau đó đàn cá con phân tán vào phát triển của cá từ trứng đến cá con cũng được các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ,… để thực hiện nhưng chỉ đến mức độ họ (Nguyễn sinh trưởng và phát triển. Nguồn lợi cá con này Văn Trọng, 1987; Nguyễn Hữu Phụng, 1991). có ý nghĩa rất lớn trong việc phục hồi và duy Nguồn lợi cá bột và cá con ở ĐBSCL rất đa trì nguồn lợi cá tự nhiên hàng năm cho vùng dạng và phong phú. Tuy nhiên, nguồn lợi thủy ĐBSCL. sản ở vùng ĐBSCL đang có xu hướng giảm dần Nghiên cứu cá bột và cá con đã được thực do nhiều nguyên nhân, trong đó nguồn lợi cá 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: tthuyvy670@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 71 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bột và cá con là phần bổ sung và đóng góp một quản lý nước và phát triển lưu vực. phần quan trọng đến nguồn lợi thủy sản nước ngọt của vùng ĐBSCL. Việc bảo vệ nguồn lợi II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP cá tự nhiên cũng là việc bảo vệ các nguồn tài 2.1. Vị trí thu mẫu nguyên thủy sản tiềm năng ở ĐBSCL. Chính Hai trạm đầu nguồn củưa sông Tiền và vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu này rất quan sông Hậu thuộc tỉnh An Giang gần biên giới trọng và có ý nghĩa nhằm mục tiêu phân tích, Campuchia (Hình 1). Vị trí đặt trạm thu mẫu xác định, đánh giá biến động thành phần loài là nơi tiếp nhận nguồn nước từ thượng nguồn và mật độ cá bột, cá con ở ĐBSCL. Bên cạnh đổ về ĐBSCL hàng năm. Trước năm 2000, nơi đó, nghiên cứu cũng góp phần đánh giá tình trạng và xu hướng của nghề đánh bắt trên toàn đây là vùng vớt và ương dưỡng cá tra bột truyền lưu vực cũng như cung cấp phương tiện giám thống vào đầu mùa mưa và là nơi đã cung cấp sát và đánh giá hiệu quả hơn các hoạt động cá tra giống cho nghề nuôi ở khu vực Nam Bộ. Hình 1. Vị trí hai trạm thu mẫu cá bột và cá con 2.2. Ngư cụ thu mẫu Hai loại ngư cụ Lú và Đáy được sử dụng để thu mẫu cá bột và cá con ở hai trạm, như sau: Ngư cụ 1: Lú (Bongo net) là loại ngư cụ chuyên dùng để thu cá bột. Sử dụng ngư cụ Lú để thu mẫu định lượng, xác định biến động số lượng và mật độ cá bột. Cấu trúc của Lú bao gồm lưới phiêu sinh có mắt lưới 1mm, miệng của lưới được buộc chặt vào khung tròn inox Hình 2. Ngư cụ Lú (Nguyễn có đường kính 1m, lưới dài 5m, tại đuôi lưới có Thanh Tùng và ctv., 1999) 72 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá biến động thành phần loài, mật độ cá bột và cá con ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN LOÀI, MẬT ĐỘ CÁ BỘT VÀ CÁ CON Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NĂM 2019 Trần Thúy Vy 1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Huỳnh Hoàng Huy1 và Đinh Trang Điểm1 TÓM TẮT Nguồn lợi cá nước ngọt ở Đồng bằng sông Cửu Long liên quan mật thiết với nguồn lợi cá của lưu vực sông Mê Công. Nhiều loài cá di cư ở lưu vực sông Mê Công tập trung sinh sản vào đầu mùa lũ, trứng và cá bột được trôi dạt từ thượng nguồn hay các bãi đẻ theo dòng nước phân tán vào các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ để ẩn náu, sinh trưởng và phát triển. Nghiên cứu quan trắc nguồn lợi cá bột nhằm đánh giá nguồn lợi thủy sản ở lưu vực cũng như có thể dự báo được sự biến động nguồn lợi thuỷ sản. Cá bột và cá con ở sông Tiền và sông Hậu gần biên giới Việt Nam và Campuchia được thu mẫu hàng ngày từ 01/06/2019 đến 30/09/2019 tại thời điểm nước ròng bằng hai loại ngư cụ Lú và Đáy. Mẫu cá được lưu trữ trong keo nhựa với nồng độ cồn 70%, và sau đó mẫu được định danh và phân tích tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Tổng cộng 928 mẫu được phân tích, và kết quả phân tích đã xác định được 128 loài thuộc 11 bộ và 32 họ, trong đó 73 loài ở sông Hậu và 118 loài ở sông Tiền. Số loài cao nhất vào tháng 9 với 94 loài, họ cá chép phong phú nhất chiếm 38% tổng số loài. Mật độ trung bình cá bột và cá con đạt cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 lần lượt là 22 cá thể/1.000 m3 nước và 27 cá thể/1.000 m3 nước. Xu hướng thành phần loài tăng dần từ đầu mùa lũ đến cuối mùa lũ, trong khi đó mật độ cá thể có biến động giảm theo chiều ngược lại. Từ khóa: Biến động, cá bột và cá con, mật độ, thành phần loài, sông Tiền và sông Hậu. I. ĐẶT VẤN ĐỀ hiện từ năm 1999 đến 2003. Kết quả chỉ ra rằng Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua 2 có 127 loài, bao gồm 123 loài ở sông Tiền và 84 nhánh sông Tiền (dài 150 km) và sông Hậu (dài loài ở sông Hậu thuộc 29 họ thuộc 10 bộ. Chế độ 190 km) tạo nên một lưu vực vùng Đồng bằng dòng chảy, mực nước lũ, quy luật ngày đêm có sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng diện tích gần liên quan đến mật độ cá bột và cá con (Nguyễn 40.550 km2, chiếm khoảng 12% diện tích cả Thanh Tùng, 2004). Định dạng và phân loại các nước. Nguồn lợi cá nước ngọt ở ĐBSCL có liên giai đoạn của cá bột gặp rất nhiều khó khăn vì quan mật thiết đến các khu vực cư trú, các bãi các thành phần cơ thể của cá chưa phát triển đầy đẻ, đặc biệt là các vùng cư trú của chúng thuộc đủ do đó hầu hết mẫu được định danh chủ yếu các chi lưu vực sông Mê Công ở thượng nguồn. đến họ và đến giống. Những nghiên cứu trước Vào đầu mùa lũ bắt đầu vào khoảng tháng 5 – 6 đây về phân loại cá ở ĐBSCL chủ yếu tập trung hàng năm, đây được xem là mùa sinh sản tập vào các loài cá trưởng thành (Mai Đình Yên và trung của các loài cá trên thượng nguồn, cá bột ctv., 1985, 1992; Trương Thủ Khoa và Trần Thị và cá con di cư thụ động theo dòng nước về Thu Hương, 1993). Nghiên cứu các giai đoạn phía hạ lưu. Sau đó đàn cá con phân tán vào phát triển của cá từ trứng đến cá con cũng được các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ,… để thực hiện nhưng chỉ đến mức độ họ (Nguyễn sinh trưởng và phát triển. Nguồn lợi cá con này Văn Trọng, 1987; Nguyễn Hữu Phụng, 1991). có ý nghĩa rất lớn trong việc phục hồi và duy Nguồn lợi cá bột và cá con ở ĐBSCL rất đa trì nguồn lợi cá tự nhiên hàng năm cho vùng dạng và phong phú. Tuy nhiên, nguồn lợi thủy ĐBSCL. sản ở vùng ĐBSCL đang có xu hướng giảm dần Nghiên cứu cá bột và cá con đã được thực do nhiều nguyên nhân, trong đó nguồn lợi cá 1 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II * Email: tthuyvy670@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 71 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II bột và cá con là phần bổ sung và đóng góp một quản lý nước và phát triển lưu vực. phần quan trọng đến nguồn lợi thủy sản nước ngọt của vùng ĐBSCL. Việc bảo vệ nguồn lợi II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP cá tự nhiên cũng là việc bảo vệ các nguồn tài 2.1. Vị trí thu mẫu nguyên thủy sản tiềm năng ở ĐBSCL. Chính Hai trạm đầu nguồn củưa sông Tiền và vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu này rất quan sông Hậu thuộc tỉnh An Giang gần biên giới trọng và có ý nghĩa nhằm mục tiêu phân tích, Campuchia (Hình 1). Vị trí đặt trạm thu mẫu xác định, đánh giá biến động thành phần loài là nơi tiếp nhận nguồn nước từ thượng nguồn và mật độ cá bột, cá con ở ĐBSCL. Bên cạnh đổ về ĐBSCL hàng năm. Trước năm 2000, nơi đó, nghiên cứu cũng góp phần đánh giá tình trạng và xu hướng của nghề đánh bắt trên toàn đây là vùng vớt và ương dưỡng cá tra bột truyền lưu vực cũng như cung cấp phương tiện giám thống vào đầu mùa mưa và là nơi đã cung cấp sát và đánh giá hiệu quả hơn các hoạt động cá tra giống cho nghề nuôi ở khu vực Nam Bộ. Hình 1. Vị trí hai trạm thu mẫu cá bột và cá con 2.2. Ngư cụ thu mẫu Hai loại ngư cụ Lú và Đáy được sử dụng để thu mẫu cá bột và cá con ở hai trạm, như sau: Ngư cụ 1: Lú (Bongo net) là loại ngư cụ chuyên dùng để thu cá bột. Sử dụng ngư cụ Lú để thu mẫu định lượng, xác định biến động số lượng và mật độ cá bột. Cấu trúc của Lú bao gồm lưới phiêu sinh có mắt lưới 1mm, miệng của lưới được buộc chặt vào khung tròn inox Hình 2. Ngư cụ Lú (Nguyễn có đường kính 1m, lưới dài 5m, tại đuôi lưới có Thanh Tùng và ctv., 1999) 72 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nuôi trồng thủy sản Bài viết về ngư nghiệp Nguồn lợi cá nước ngọt Bảo vệ vùng bãi đẻ của cá Loài cá nước ngọt Nam BộGợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 241 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 235 0 0 -
225 trang 221 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 197 0 0 -
2 trang 195 0 0
-
13 trang 181 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 180 0 0 -
91 trang 175 0 0
-
8 trang 153 0 0