Đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định dưới góc độ địa lí kinh tế - xã hội
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 451.89 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phân hóa giàu nghèo có tác động rất lớn đến việc khai thác nguồn “vốn con người”, nhằm đảm bảo sinh kế, nâng cao mức sống, hơn thế nữa là hướng đến công bằng trong hưởng thụ các nhu cầu vật chất và tinh thần trong đời sống thường ngày.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định dưới góc độ địa lí kinh tế - xã hội HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2021-0033 Social Sciences, 2021, Volume 66, Issue 2, pp. 133-141 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐÁNH GIÁ SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ MIỀN NÚI TỈNH BÌNH ĐỊNH DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÍ KINH TẾ - XÃ HỘI Nguyễn Đức Tôn*1 và Nguyễn Thành Trung2 1 Khoa Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Quy Nhơn 2 Khoa Sư phạm, Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt. Phân hóa giàu nghèo có tác động rất lớn đến việc khai thác nguồn “vốn con người”, nhằm đảm bảo sinh kế, nâng cao mức sống, hơn thế nữa là hướng đến công bằng trong hưởng thụ các nhu cầu vật chất và tinh thần trong đời sống thường ngày. Bằng phương pháp phân tích, so sánh và thống kê toán học, bài báo đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định dựa vào chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người/tháng và được cụ thể thành các tiêu chí là Hệ số GINI, Tiêu chuẩn “40%” và chênh lệch 20% thu nhập nhóm cao nhất và thấp nhất. Kết quả đánh giá cho thấy sự phân hóa giàu nghèo giai đoạn 2010 - 2018 đạt mức tương đối công bằng (theo chuẩn của Ngân hàng thế giới – WB) và có xu hướng tăng lên, hơn nữa qua phương pháp phân nhóm thống kê không đều và đánh giá thang điểm, đã xác định mức độ phân hóa giàu nghèo của địa phương được chia thành 3 nhóm rõ rệt. Đây là cơ sở quan trọng để địa phương thực hiện các chương trình hành động, chính sách giảm nghèo, ổn định sinh kế góp phần nâng cao mức sống, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo trong thời gian tới. Từ khóa: Phân hóa giàu nghèo, thu nhập bình quân đầu người/tháng, hệ số GINI, cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định. 1. Mở đầu Hiện nay, trong thời kì hội nhập cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển trí tuệ, sáng tạo và đổi mới. Quá trình kinh tế mở này dẫn đến những thay đổi rõ rệt trên tất cả khía cạnh trong đời sống thường ngày. Gắn với nền sản xuất xã hội này thì sự phân công lao động xã hội với những đặc trưng riêng biệt của các thành phần, tầng lớp là một quá tất yếu, chính hiện tượng này đã làm nảy sinh sự chênh lệch về nguồn lực phát triển kinh tế và các kết quả đi kèm hay nói cách khác đó chính là sự phân hóa giàu nghèo giữa cộng đồng dân cư, lãnh thổ. Cộng đồng dân cư miền núi ở Việt Nam là lãnh thổ rất khó khăn, hạn chế về nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, điển hình như cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ lao động sản xuất… và hơn nữa đây là địa bàn tập trung nhiều người nghèo, cộng đồng các dân tộc ít người và rất dễ bị tổn thương trước nhưng sự thay đổi của tự nhiên, xã hội. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội và Ủy ban Dân tộc, vùng nghèo nhất nước ta hiện nay là ở các địa phương miền núi phía tây các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Quảng Nam và Quảng Ngãi; tỉ lệ hộ nghèo đa chiều của dân tộc thiểu số lên đến 55,0% tổng số hộ nghèo cả nước [1]. Ngày nhận bài: 2/3/2021. Ngày sửa bài: 29/4/2021. Ngày nhận đăng: 10/5/2021. Tác giả liên hệ: Nguyễn Đức Tôn. Địa chỉ e-mail: nguyenducton@qnu.edu.vn 133 Nguyễn Đức Tôn* và Nguyễn Thành Trung Cùng chung với những đặc điểm của cộng đồng dân cư miền núi của Việt Nam và các tỉnh, để nâng cao đời sống người dân, giúp cải thiện sinh kế và giảm nghèo, ở tỉnh Bình Định đã áp dụng triển khai và thực hiện Chương trình 135, 134, 30a, nông thôn mới và đã đạt được một số kết quả nhất định như: Thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng lên (trong giai đoạn 2010 – 2018 tăng lên gần 2,0 lần), tỉ lệ hộ nghèo giảm (giảm gần 6% giai đoạn 2016-2018), nhiều hộ dân thoát nghèo vươn lên phát triển kinh tế, sinh kế dần được chuyển đổi theo hướng tích cực, mức sống dần được nâng cao [2]. Ngược lại với hình ảnh này, là sự thiếu hụt, khó khăn về thu nhập, chi tiêu trong đời sống của một số hộ dân, nhóm dân cư khác trên địa bàn, sinh kế không ổn định và các hộ dân rơi vào trình trạng nghèo của địa phương, mức sống thấp [2], [3]. Dưới góc độ Địa lí kinh tế - xã hội, bài báo tiến hành đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định theo lãnh thổ cấp huyện dựa vào chỉ tiêu Thu nhập bình quân đầu người/tháng, ở chỉ tiêu này đã phân thành 5 nhóm dân cư (ngũ phân vị) theo Tổng cục Thống kê và đây cũng chính là khách thể nghiên cứu chính của bài báo này. Sở dĩ tác giả lựa chọn chỉ tiêu TNBQĐN/tháng để phân tích sự phân hóa giàu nghèo vì đây là chỉ tiêu có vai trò quan trọng và quyết định đến mức sống ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định dưới góc độ địa lí kinh tế - xã hội HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2021-0033 Social Sciences, 2021, Volume 66, Issue 2, pp. 133-141 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐÁNH GIÁ SỰ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ MIỀN NÚI TỈNH BÌNH ĐỊNH DƯỚI GÓC ĐỘ ĐỊA LÍ KINH TẾ - XÃ HỘI Nguyễn Đức Tôn*1 và Nguyễn Thành Trung2 1 Khoa Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Quy Nhơn 2 Khoa Sư phạm, Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt. Phân hóa giàu nghèo có tác động rất lớn đến việc khai thác nguồn “vốn con người”, nhằm đảm bảo sinh kế, nâng cao mức sống, hơn thế nữa là hướng đến công bằng trong hưởng thụ các nhu cầu vật chất và tinh thần trong đời sống thường ngày. Bằng phương pháp phân tích, so sánh và thống kê toán học, bài báo đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định dựa vào chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người/tháng và được cụ thể thành các tiêu chí là Hệ số GINI, Tiêu chuẩn “40%” và chênh lệch 20% thu nhập nhóm cao nhất và thấp nhất. Kết quả đánh giá cho thấy sự phân hóa giàu nghèo giai đoạn 2010 - 2018 đạt mức tương đối công bằng (theo chuẩn của Ngân hàng thế giới – WB) và có xu hướng tăng lên, hơn nữa qua phương pháp phân nhóm thống kê không đều và đánh giá thang điểm, đã xác định mức độ phân hóa giàu nghèo của địa phương được chia thành 3 nhóm rõ rệt. Đây là cơ sở quan trọng để địa phương thực hiện các chương trình hành động, chính sách giảm nghèo, ổn định sinh kế góp phần nâng cao mức sống, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo trong thời gian tới. Từ khóa: Phân hóa giàu nghèo, thu nhập bình quân đầu người/tháng, hệ số GINI, cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định. 1. Mở đầu Hiện nay, trong thời kì hội nhập cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và công nghệ là yếu tố quyết định cho sự phát triển trí tuệ, sáng tạo và đổi mới. Quá trình kinh tế mở này dẫn đến những thay đổi rõ rệt trên tất cả khía cạnh trong đời sống thường ngày. Gắn với nền sản xuất xã hội này thì sự phân công lao động xã hội với những đặc trưng riêng biệt của các thành phần, tầng lớp là một quá tất yếu, chính hiện tượng này đã làm nảy sinh sự chênh lệch về nguồn lực phát triển kinh tế và các kết quả đi kèm hay nói cách khác đó chính là sự phân hóa giàu nghèo giữa cộng đồng dân cư, lãnh thổ. Cộng đồng dân cư miền núi ở Việt Nam là lãnh thổ rất khó khăn, hạn chế về nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, điển hình như cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, trình độ lao động sản xuất… và hơn nữa đây là địa bàn tập trung nhiều người nghèo, cộng đồng các dân tộc ít người và rất dễ bị tổn thương trước nhưng sự thay đổi của tự nhiên, xã hội. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương bình và Xã hội và Ủy ban Dân tộc, vùng nghèo nhất nước ta hiện nay là ở các địa phương miền núi phía tây các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Quảng Nam và Quảng Ngãi; tỉ lệ hộ nghèo đa chiều của dân tộc thiểu số lên đến 55,0% tổng số hộ nghèo cả nước [1]. Ngày nhận bài: 2/3/2021. Ngày sửa bài: 29/4/2021. Ngày nhận đăng: 10/5/2021. Tác giả liên hệ: Nguyễn Đức Tôn. Địa chỉ e-mail: nguyenducton@qnu.edu.vn 133 Nguyễn Đức Tôn* và Nguyễn Thành Trung Cùng chung với những đặc điểm của cộng đồng dân cư miền núi của Việt Nam và các tỉnh, để nâng cao đời sống người dân, giúp cải thiện sinh kế và giảm nghèo, ở tỉnh Bình Định đã áp dụng triển khai và thực hiện Chương trình 135, 134, 30a, nông thôn mới và đã đạt được một số kết quả nhất định như: Thu nhập bình quân đầu người/tháng tăng lên (trong giai đoạn 2010 – 2018 tăng lên gần 2,0 lần), tỉ lệ hộ nghèo giảm (giảm gần 6% giai đoạn 2016-2018), nhiều hộ dân thoát nghèo vươn lên phát triển kinh tế, sinh kế dần được chuyển đổi theo hướng tích cực, mức sống dần được nâng cao [2]. Ngược lại với hình ảnh này, là sự thiếu hụt, khó khăn về thu nhập, chi tiêu trong đời sống của một số hộ dân, nhóm dân cư khác trên địa bàn, sinh kế không ổn định và các hộ dân rơi vào trình trạng nghèo của địa phương, mức sống thấp [2], [3]. Dưới góc độ Địa lí kinh tế - xã hội, bài báo tiến hành đánh giá sự phân hóa giàu nghèo của cộng đồng dân cư miền núi tỉnh Bình Định theo lãnh thổ cấp huyện dựa vào chỉ tiêu Thu nhập bình quân đầu người/tháng, ở chỉ tiêu này đã phân thành 5 nhóm dân cư (ngũ phân vị) theo Tổng cục Thống kê và đây cũng chính là khách thể nghiên cứu chính của bài báo này. Sở dĩ tác giả lựa chọn chỉ tiêu TNBQĐN/tháng để phân tích sự phân hóa giàu nghèo vì đây là chỉ tiêu có vai trò quan trọng và quyết định đến mức sống ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phân hóa giàu nghèo Thu nhập bình quân đầu người/tháng Hệ số GINI Cộng đồng dân cư miền núi Phát triển sinh kế bền vữngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Bài giảng Ảnh hưởng của những vấn đề đô thị hiện nay - Phạm Hồng Thủy
42 trang 87 0 0 -
Giải pháp rút ngắn khoảng cách giàu nghèo
6 trang 37 0 0 -
73 trang 31 0 0
-
30 trang 22 0 0
-
An sinh xã hội và phát triển bền vững
7 trang 21 0 0 -
79 trang 20 0 0
-
Phân tầng xã hội về thu nhập và chi tiêu ở Việt Nam
11 trang 20 0 0 -
0 trang 19 0 0
-
Đề bài: Phân tích thực trạng phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam
18 trang 19 0 0 -
Phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay thực trạng và hệ lụy
9 trang 18 0 0