Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 724.01 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Để xác định được vai trò và vị trí của nghề nuôi cá chẽm trong ao đất, do đó nghiên cứu được thực hiện với nội dung đánh giá khía cạnh kỹ thuật và hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá chẽm trong ao ở các tỉnh ven biển ĐBSCL nhằm làm cơ sở dữ liệu và đánh giá tiềm năng phát triển của nghề nuôi cá chẽm trong ao ở các tỉnh ven biển ĐBSCL.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH NUÔI CÁ CHẼM (Lates calcarifer) TRONG AO Ở CÁC TỈNH VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Lý Văn Khánh, Lê Việt Hà, Trần Ngọc Hải Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 20/07/2015 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 14/09/2015 Ngày chấp nhận đăng: 09/2016 Title: An evaluation on the potential development of seabass model (Lates calcarifer) along the coastal provinces of the Mekong Delta area Từ khóa: Cá chẽm, Lates calcarifer, nuôi trồng thủy sản, ĐBSCL Keywords: Butter catfish (Ompok bimaculatus), Biological characteristics, Reproductive biology ABSTRACT This study aimed at evaluation on the status and potential for development of seabass (Lates calcarifer) culture in pond in the coastal province of the Mekong Delta. The study was conducted from July 2014 to December 2014 through interviewing 74 households in Tien Giang, Ben Tre, Soc Trang, Bac Lieu, Ca Mau and Kien Giang with prepared questionairs.Results showed that the improved intensive farming system, the farms had average area of 1.4ha, and depth of 0.8-1.2m. Fish of 5-6cm in size were stocked at 0.06 inds/m2, in polyculture with other species. After 7-10 months of culture, fish were harvested at body weight of 0.6 kg, survival rate of 48%$ and yield of 0.2 ton/ha/crop. For the intensive farming systems, it was practiced mainly in Ben Tre, Tien Giang and Soc Trang province under firms of companies and entrepreneurs. Average stocking density was at 5 fish/m2 (ranging of 3-6 fish/m2). After 9-15 months of culture, fish were harvested at BW of 0.8-1kg, and yield of 26 tons/ha/crop (ranging of 12-31 tons/ha/crop).Production cost for the extensive farming systems and intensive farming systems were 27,900 VND/kg and 58,200 VND/kg, respectively, and selling prices were at 48,700 VND/kg and 52,200 VND/kg. The prior systems with low production cost obtained net profit of 21,600 VND/kg while the later system was fail to get profit (- 6,200 VND/kg); corresponding B/C of 81% and -9.0%. Among the provinces, Bac Lieu and Tra Vinh had higher rates of households fail to get profit. Factors effecting yields and profits of the systems were analyzed. TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 07/2014 đến tháng 12/2014, thông qua khảo sát 74 hộ nuôi cá chẽm trong ao ở tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang bằng bảng câu hỏi được soạn sẵn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nuôi quảng canh cải tiến có diện tích bình quân 1,4 ha/ao, độ sâu 0,8 - 1,2 m. Cá giống có kích cỡ 5 - 6 cm/con được thả nuôi với mật độ thả 0,06 con/m2, kết hợp với một số đối tượng thuỷ sản khác. Sau thời gian nuôi từ 7 - 10 tháng cá đạt kích cỡ 0,6 kg/con, với tỉ lệ sống 48% và năng suất nuôi đạt 0,2 tấn/ha/vụ. Đối với nuôi công nghiệp, mô hình này tập trung ở Bến Tre, Tiền Giang và Sóc Trăng với hình thức công ty hay trang trại lớn. Mật độ thả trung bình 5 con/m2 (dao động 3 - 6 con/m2). Sau thời gian nuôi 9 - 15 tháng, cá đạt 0,8 - 1,0 kg/con được thu hoạch với năng suất trung bình 26 tấn/ha/vụ (dao động 12 - 31 tấn/ha/vụ). Chi phí đầu tư trong 2 mô 60 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology hình quảng canh và công nghiệp lần lượt là 27.900 đồng/kg và 58.200 đồng/kg cá, với giá bán cá thương phẩm đạt 48.700 đồng/kg và 52.200 đồng/kg. Mô hình quảng canh có mức đầu tư thấp, lợi nhuận đạt 21.600 đồng/kg cá, trong khi mô hình công nghiệp lỗ 6.200 đồng/kg, tương ứng tỉ suất lợi nhuận lần lượt là 81% và -9% (tỉ lệ hộ nuôi có lãi tương ứng 87% và 35%). So sánh giữa các địa phương, người nuôi cá chẽm tại Bạc Liêu và Trà Vinh thua lỗ nhiều nhất. Ngoài ra các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận trong mô hình nuôi thâm canh cũng được phân tích. tóm tắt của Tổng cục Thống kê; các bản tin thủy sản của Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 1. GIỚI THIỆU Việt Nam có lịch sử phát triển nuôi cá biển còn rất non trẻ so với thế giới, mới bắt đầu từ những năm 90 và phát triển khá chậm, tới năm 2005 chỉ đạt 3.500 tấn chủ yếu từ nuôi lồng trên biển, nuôi ao đất chỉ là phần không đáng kể. Tới năm 2010 cả nước đạt 12.598 tấn cá biển chủ yếu vẫn là nuôi lồng bè, diện tích nuôi ao đất mới chỉ đạt khoảng 1.000 ha nhưng tập trung ở các tỉnh Miền Trung chưa phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) (Nguyễn Địch Thanh, 2010). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2011), mục tiêu đến năm 2015, tổng sản lượng cá biển nuôi ở nước ta đạt 160.000 tấn; năm 2020, tổng sản lượng cá biển nuôi đạt 200.000 tấn. Nuôi cá chẽm ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates Calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH NUÔI CÁ CHẼM (Lates calcarifer) TRONG AO Ở CÁC TỈNH VEN BIỂN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Lý Văn Khánh, Lê Việt Hà, Trần Ngọc Hải Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận bài: 20/07/2015 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 14/09/2015 Ngày chấp nhận đăng: 09/2016 Title: An evaluation on the potential development of seabass model (Lates calcarifer) along the coastal provinces of the Mekong Delta area Từ khóa: Cá chẽm, Lates calcarifer, nuôi trồng thủy sản, ĐBSCL Keywords: Butter catfish (Ompok bimaculatus), Biological characteristics, Reproductive biology ABSTRACT This study aimed at evaluation on the status and potential for development of seabass (Lates calcarifer) culture in pond in the coastal province of the Mekong Delta. The study was conducted from July 2014 to December 2014 through interviewing 74 households in Tien Giang, Ben Tre, Soc Trang, Bac Lieu, Ca Mau and Kien Giang with prepared questionairs.Results showed that the improved intensive farming system, the farms had average area of 1.4ha, and depth of 0.8-1.2m. Fish of 5-6cm in size were stocked at 0.06 inds/m2, in polyculture with other species. After 7-10 months of culture, fish were harvested at body weight of 0.6 kg, survival rate of 48%$ and yield of 0.2 ton/ha/crop. For the intensive farming systems, it was practiced mainly in Ben Tre, Tien Giang and Soc Trang province under firms of companies and entrepreneurs. Average stocking density was at 5 fish/m2 (ranging of 3-6 fish/m2). After 9-15 months of culture, fish were harvested at BW of 0.8-1kg, and yield of 26 tons/ha/crop (ranging of 12-31 tons/ha/crop).Production cost for the extensive farming systems and intensive farming systems were 27,900 VND/kg and 58,200 VND/kg, respectively, and selling prices were at 48,700 VND/kg and 52,200 VND/kg. The prior systems with low production cost obtained net profit of 21,600 VND/kg while the later system was fail to get profit (- 6,200 VND/kg); corresponding B/C of 81% and -9.0%. Among the provinces, Bac Lieu and Tra Vinh had higher rates of households fail to get profit. Factors effecting yields and profits of the systems were analyzed. TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển mô hình nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ao ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 07/2014 đến tháng 12/2014, thông qua khảo sát 74 hộ nuôi cá chẽm trong ao ở tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang bằng bảng câu hỏi được soạn sẵn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nuôi quảng canh cải tiến có diện tích bình quân 1,4 ha/ao, độ sâu 0,8 - 1,2 m. Cá giống có kích cỡ 5 - 6 cm/con được thả nuôi với mật độ thả 0,06 con/m2, kết hợp với một số đối tượng thuỷ sản khác. Sau thời gian nuôi từ 7 - 10 tháng cá đạt kích cỡ 0,6 kg/con, với tỉ lệ sống 48% và năng suất nuôi đạt 0,2 tấn/ha/vụ. Đối với nuôi công nghiệp, mô hình này tập trung ở Bến Tre, Tiền Giang và Sóc Trăng với hình thức công ty hay trang trại lớn. Mật độ thả trung bình 5 con/m2 (dao động 3 - 6 con/m2). Sau thời gian nuôi 9 - 15 tháng, cá đạt 0,8 - 1,0 kg/con được thu hoạch với năng suất trung bình 26 tấn/ha/vụ (dao động 12 - 31 tấn/ha/vụ). Chi phí đầu tư trong 2 mô 60 Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 60 – 71 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology hình quảng canh và công nghiệp lần lượt là 27.900 đồng/kg và 58.200 đồng/kg cá, với giá bán cá thương phẩm đạt 48.700 đồng/kg và 52.200 đồng/kg. Mô hình quảng canh có mức đầu tư thấp, lợi nhuận đạt 21.600 đồng/kg cá, trong khi mô hình công nghiệp lỗ 6.200 đồng/kg, tương ứng tỉ suất lợi nhuận lần lượt là 81% và -9% (tỉ lệ hộ nuôi có lãi tương ứng 87% và 35%). So sánh giữa các địa phương, người nuôi cá chẽm tại Bạc Liêu và Trà Vinh thua lỗ nhiều nhất. Ngoài ra các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận trong mô hình nuôi thâm canh cũng được phân tích. tóm tắt của Tổng cục Thống kê; các bản tin thủy sản của Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 1. GIỚI THIỆU Việt Nam có lịch sử phát triển nuôi cá biển còn rất non trẻ so với thế giới, mới bắt đầu từ những năm 90 và phát triển khá chậm, tới năm 2005 chỉ đạt 3.500 tấn chủ yếu từ nuôi lồng trên biển, nuôi ao đất chỉ là phần không đáng kể. Tới năm 2010 cả nước đạt 12.598 tấn cá biển chủ yếu vẫn là nuôi lồng bè, diện tích nuôi ao đất mới chỉ đạt khoảng 1.000 ha nhưng tập trung ở các tỉnh Miền Trung chưa phát triển mạnh ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) (Nguyễn Địch Thanh, 2010). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2011), mục tiêu đến năm 2015, tổng sản lượng cá biển nuôi ở nước ta đạt 160.000 tấn; năm 2020, tổng sản lượng cá biển nuôi đạt 200.000 tấn. Nuôi cá chẽm ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Mô hình nuôi cá chẽm Phát triển mô hình nuôi cá chẽm Lates Calcarifer Đồng bằng sông Cửu Long Nuôi trồng thủy sản Reproductive biologyTài liệu liên quan:
-
78 trang 348 2 0
-
Đề thi giữa học kì 2 môn Địa lí lớp 9 năm 2022-2023 có đáp án - Trường THCS Phan Bội Châu, Hiệp Đức
6 trang 342 0 0 -
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 258 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 245 0 0 -
225 trang 222 0 0
-
2 trang 200 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 199 0 0 -
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 184 0 0 -
13 trang 182 0 0
-
91 trang 175 0 0