Danh nhân lịch sử: Nguyễn Công Trứ
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 126.83 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nguyễn Công Trứ (Mậu Tuất 1788-Mậu Ngọ 1858) Danh sĩ, nhà doanh điển, đời Tự Đức, tự Tồn Chất, hiệu Ngọc Trai, biệt hiệu Hi Văn, sinh ngày 1-11 âm lịch, quê làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh con Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn. Năm Qúi Dậu 1813 ông đỗ sinh đồ (Tú tài) đến năm Kỉ Mão 1819, đỗ giải nguyên. Sơ bổ Hành tẩu bộ lễ, ở Quốc sử quán, rồi làm tri huyện Đường Hào (Hải Dương), trải qua các chức vụ: Lang trung bộ Lại, Tư nghiệp Quốc tử giám (1824), Tham hiệp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh nhân lịch sử: Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ (Mậu Tuất 1788-Mậu Ngọ 1858)Nguyễn Công Trứ (Mậu Tuất 1788-Mậu Ngọ 1858)Danh sĩ, nhà doanh điển, đời Tự Đức, tự Tồn Chất, hiệu Ngọc Trai, biệt hiệuHi Văn, sinh ngày 1-11 âm lịch, quê làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh HàTĩnh con Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn.Năm Qúi Dậu 1813 ông đỗ sinh đồ (Tú tài) đến năm Kỉ Mão 1819, đỗ giảinguyên. Sơ bổ Hành tẩu bộ lễ, ở Quốc sử quán, rồi làm tri huyện Đường Hào(Hải Dương), trải qua các chức vụ: Lang trung bộ Lại, T ư nghiệp Quốc tử giám(1824), Tham hiệp trấn Thanh Hoá (1825), Thị lang bộ Hình (1827), rồi thăngHữu tham tri bộ Hình, sung chức Dinh điền sứ Nam Định, Ninh Bình. Có lúclàm Tổng đốc Hải An, Tả đô ngự sử Viện đô sát, Tuần phủ An Giang. Đếnnăm 70 tuổi (1848) ông ba lần xin h ưu trí mới được về.Ông từng cùng các tướng đi đánh dẹp các nhóm Lê Duy Lương, Phan BáVành, Nùng Văn Vân, từng làm Tham tán quân vụ trấn Tây thành (Nam Vang-Phnom Pênh).Khi làm Dinh điền sứ, ông có công khẩn hoang, lập hai huyện Kim Sơn, TiềnHải và hai tổng Hoành Thư, Ninh Nhất trong năm 1829.Năm 1827 ông được ban thưởng một toà bạch ngọc hình núi, một con ngựa mãnão, một chiếc kim khánh khắc bốn chữ”Lao năng khả t ướng”. Năm 1829 bịcáo “ mua tiếng ngay thẳng” “mại trực”; năm 1841 bị tuyên án “trảm giamhậu” vì không thi hành chỉ dụ triều đình, nhưng chỉ giáng xuống làm Langtrung bộ Binh, lãnh chức quyền Tuần phủ An Giang, rồi bị cách tuột làm línhthú ở Quảng Ngãi.Năm 70 tuổi ông có bài “Tự thọ”. Năm Mậu Ngọ 1858 ông mất ngày 14-11Âm lịch, thọ 80 tuổi.Tác phẩm của ông có đến hàng trăm bài. Riêng thơ Nôm (52 bài), hát nói (63bài). Các bài phú, câu đối (4 bài).Có thể nói Nguyễn Công Trứ là một con người đa dạng, một nghệ sĩ tài hoa,một nhà chính trị lão luyện, một trong những nhà cai trị xuất sắc nhất của triềuNguyễn. Nguyễn Cư Trinh (Bính Thân 1716-Đinh Hợi 1767)Nguyễn Cư Trinh (Bính Thân 1716-Đinh Hợi 1767)Danh sĩ, nhà doanh điền đời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, tên chữ làNghi, hiệu Đạm Am, con út danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ. Tổ xa vốn họ Trịnh,người huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An, sau dời vào xã An Hoà, huyện HươngTrà, tỉnh Thừa Thiên.Ông đỗ hương tiến (cử nhân) có tài văn võ, làm quan đến Thượng thư bộ Lại,kiêm Tào vận sứ, tước Nghi Biểu Hầu. Ông nổi tiếng liêm chánh, giỏi việcchính trị, doanh điền, ngoại giao.Năm Canh Ngọ 1750 ông đánh dẹp cuộc nổi dậy chống triều đình ở Đá Vách(người dân tộc khởi loạn). Năm 1753 ông có công trong việc mở mang bờ c õi,an dân.Năm Đinh Hợi 1767 ông bịnh mất, hưởng dương 51 tuổi, được truy tặng Tá Lýcông thần, Vinh lộc đại phu, thuỵ Văn Định.Thơ văn ông được truyền tụng nhiều, gồm một số bài thơ chữ Hán và chữ Nômđặc sắc nhất l à: Truyện Sãi Vãi (Nôm), Đ ộn Am thi tập (Hán)Vào năm 1750 Võ vương bổ Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ Quảng Ngãi loviệc trị an và phủ dụ sắc dân Hré. Sau khi nghiên cứu, xem xét sinh hoạt, cátính của người Hré, Nguyễn Cư Trinh đem khả năng và tài trí của mình rathuyết phục nhưng không thành.Thuyết phục không xong ông quyết định tiến đánh, nhưng trước khi tiến quânông đã sáng tác tác phẩm Sãi Vãi để vạch rõ những khối óc mê tín dị đoan,cùng sự sa đọa của một số sư sãi đồi trụy mà nhân dân vẫn còn mê muội tintheo.Tác phẩm ra đời cùng chiến công hiển hách ấy, Nguyễn C ư Trinh vừa đúng 35tuổi. Đối với Nguyễn Cư Trinh qua Sãi Vãi và nhiều người khác – tu là sốngvà sống là tu như quan niệm phóng khoáng, cởi mở của đạo thiền.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh nhân lịch sử: Nguyễn Công Trứ Nguyễn Công Trứ (Mậu Tuất 1788-Mậu Ngọ 1858)Nguyễn Công Trứ (Mậu Tuất 1788-Mậu Ngọ 1858)Danh sĩ, nhà doanh điển, đời Tự Đức, tự Tồn Chất, hiệu Ngọc Trai, biệt hiệuHi Văn, sinh ngày 1-11 âm lịch, quê làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh HàTĩnh con Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn.Năm Qúi Dậu 1813 ông đỗ sinh đồ (Tú tài) đến năm Kỉ Mão 1819, đỗ giảinguyên. Sơ bổ Hành tẩu bộ lễ, ở Quốc sử quán, rồi làm tri huyện Đường Hào(Hải Dương), trải qua các chức vụ: Lang trung bộ Lại, T ư nghiệp Quốc tử giám(1824), Tham hiệp trấn Thanh Hoá (1825), Thị lang bộ Hình (1827), rồi thăngHữu tham tri bộ Hình, sung chức Dinh điền sứ Nam Định, Ninh Bình. Có lúclàm Tổng đốc Hải An, Tả đô ngự sử Viện đô sát, Tuần phủ An Giang. Đếnnăm 70 tuổi (1848) ông ba lần xin h ưu trí mới được về.Ông từng cùng các tướng đi đánh dẹp các nhóm Lê Duy Lương, Phan BáVành, Nùng Văn Vân, từng làm Tham tán quân vụ trấn Tây thành (Nam Vang-Phnom Pênh).Khi làm Dinh điền sứ, ông có công khẩn hoang, lập hai huyện Kim Sơn, TiềnHải và hai tổng Hoành Thư, Ninh Nhất trong năm 1829.Năm 1827 ông được ban thưởng một toà bạch ngọc hình núi, một con ngựa mãnão, một chiếc kim khánh khắc bốn chữ”Lao năng khả t ướng”. Năm 1829 bịcáo “ mua tiếng ngay thẳng” “mại trực”; năm 1841 bị tuyên án “trảm giamhậu” vì không thi hành chỉ dụ triều đình, nhưng chỉ giáng xuống làm Langtrung bộ Binh, lãnh chức quyền Tuần phủ An Giang, rồi bị cách tuột làm línhthú ở Quảng Ngãi.Năm 70 tuổi ông có bài “Tự thọ”. Năm Mậu Ngọ 1858 ông mất ngày 14-11Âm lịch, thọ 80 tuổi.Tác phẩm của ông có đến hàng trăm bài. Riêng thơ Nôm (52 bài), hát nói (63bài). Các bài phú, câu đối (4 bài).Có thể nói Nguyễn Công Trứ là một con người đa dạng, một nghệ sĩ tài hoa,một nhà chính trị lão luyện, một trong những nhà cai trị xuất sắc nhất của triềuNguyễn. Nguyễn Cư Trinh (Bính Thân 1716-Đinh Hợi 1767)Nguyễn Cư Trinh (Bính Thân 1716-Đinh Hợi 1767)Danh sĩ, nhà doanh điền đời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát, tên chữ làNghi, hiệu Đạm Am, con út danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ. Tổ xa vốn họ Trịnh,người huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An, sau dời vào xã An Hoà, huyện HươngTrà, tỉnh Thừa Thiên.Ông đỗ hương tiến (cử nhân) có tài văn võ, làm quan đến Thượng thư bộ Lại,kiêm Tào vận sứ, tước Nghi Biểu Hầu. Ông nổi tiếng liêm chánh, giỏi việcchính trị, doanh điền, ngoại giao.Năm Canh Ngọ 1750 ông đánh dẹp cuộc nổi dậy chống triều đình ở Đá Vách(người dân tộc khởi loạn). Năm 1753 ông có công trong việc mở mang bờ c õi,an dân.Năm Đinh Hợi 1767 ông bịnh mất, hưởng dương 51 tuổi, được truy tặng Tá Lýcông thần, Vinh lộc đại phu, thuỵ Văn Định.Thơ văn ông được truyền tụng nhiều, gồm một số bài thơ chữ Hán và chữ Nômđặc sắc nhất l à: Truyện Sãi Vãi (Nôm), Đ ộn Am thi tập (Hán)Vào năm 1750 Võ vương bổ Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ Quảng Ngãi loviệc trị an và phủ dụ sắc dân Hré. Sau khi nghiên cứu, xem xét sinh hoạt, cátính của người Hré, Nguyễn Cư Trinh đem khả năng và tài trí của mình rathuyết phục nhưng không thành.Thuyết phục không xong ông quyết định tiến đánh, nhưng trước khi tiến quânông đã sáng tác tác phẩm Sãi Vãi để vạch rõ những khối óc mê tín dị đoan,cùng sự sa đọa của một số sư sãi đồi trụy mà nhân dân vẫn còn mê muội tintheo.Tác phẩm ra đời cùng chiến công hiển hách ấy, Nguyễn C ư Trinh vừa đúng 35tuổi. Đối với Nguyễn Cư Trinh qua Sãi Vãi và nhiều người khác – tu là sốngvà sống là tu như quan niệm phóng khoáng, cởi mở của đạo thiền.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tiểu sử danh nhân Danh nhân văn hóa danh nhân lịch sử nhân vật lịch sử lịch sử việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 145 0 0 -
Nội dung và ý nghĩa quan điểm về đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm
7 trang 86 1 0 -
69 trang 73 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 57 0 0 -
11 trang 48 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 45 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 44 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0