Danh nhân Việt Nam: Ông Bích Khiêm
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 116.25 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ông Bích khiêm (Nhâm Thìn 1832-Giáp Thân 1884) Danh tướng, danh sĩ triều Tự Đức, tự là Mục Chi, sinh năm Nhâm Thìn 1832 tại làng Phong Lệ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng), nhân dân địa phương thường gọi ông là cụ Tiễu Phong Lệ (Tiễu: Tiểu phủ sứ, Phong Lệ: tên làng). Ông xuất thân trong gia đình Nho giáo truyền thống, thân phụ ông là Ông Văn Điều, một người hay chữ trong làng làm nghề nông. Năm 1847 (Thiệu Trị thứ 7) ông đỗ Cử...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh nhân Việt Nam: Ông Bích Khiêm Ông Bích Khiêm (Nhâm Thìn 1832-Giáp Thân 1884)Ông Bích khiêm (Nhâm Thìn 1832-Giáp Thân 1884)Danh tướng, danh sĩ triều Tự Đức, tự là Mục Chi, sinh năm Nhâm Thìn 1832tại làng Phong L ệ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Hòa Châu,huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng), nhân dân địa phương thường gọi ông là cụTiễu Phong Lệ (Tiễu: Tiểu phủ sứ, Phong Lệ: tên làng).Ông xuất thân trong gia đình Nho giáo truyền thống, thân phụ ông l à Ông VănĐiều, một người hay chữ trong làng làm nghề nông.Năm 1847 (Thiệu Trị thứ 7) ông đỗ Cử nhân thứ 14 trong 46 vị tân khoa, khoanăm Đinh Mùi tại trường thi Thừa Thiên lúc mới 15 tuổi.Ông được bổ làm việc ở nội các, rồi chuyển ra làm tri huyện Kim Thành, HảiDương. Nhưng do bản tính ngay thẳng, bộc trực, th ương người cô thế nêntrong lúc đương nhiệm ông đụng độ với nhiều c ường hào, ác bá, ông bị bọnchúng cấu kết nhau tố cáo với triều đình, ông bị cách chức phải lui về quê.Ông đứng ra vận động quần chúng khai hoang, đắp đ ường, khơi sông ngòi,đem nước tưới cho ruộng đồng. Theo m ột số tài liệu, Ông Bích Khiêm đã vậnđộng đồng bào đắp đập, lấy nước tưới cho các đồng bào ở Phú Hoà, BànThạch. Đắp đường từ Phong Bắc, Phong Nam, Tây Nam, Nam Thạch, ĐôngHòa khiến cho sinh khí địa phương lúc bấy giờ thêm tăng.Năm 1858 tàu chiến Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, vua Tự Đức cho vời ông vàoHuế nhậm chức mới. Từ đó ông “thứa văn, quá võ” lãnh trọng trách cầm binhbình định xứ sở trước nạn ngoại xâm.Năm 1870 (Tự Đức thứ 23) Ông c ùng Tham tán Lê Bá Thận đánh tan đượcgiặc cướp ở miền cao Lục Ngạn (thuộc Cao Bằng) được thăng chức Tham chibộ Binh, phụ trách Tán lí quân thứ Lạng Bình (Lạng Sơn, Cao Bằng). Ít lâuthăng Tham tán.Đầu niên hiệu Kiến Phúc (1884) thăng thụ Thị lang tấn phong t ước Kiên TrungNam. Tháng 5-1884 ông đem 50 lính đi thanh tra Sơn phòng sứ, thẳng vềQuảng Nam. Tôn Thất Thuyết tìm cách ám hại ông, cách chức phát đi an trí ởBình Thuận. Tại đây ông uống thuốc độc tự tử trong ngục, h ưởng thọ 55 tuổi.Ngoài một danh tướng có thực tài, Ông Bích Khiêm còn là m ột nhà thơ Nômsáng giá. Ông là tác giả một số thơ chữ Hán, Nôm và sơ tấu có giá trị quốcphòng, văn học. Phạm Bá Tuy (1900 - 1996)Phạm Bá Tuy (1900 - 1996).Phạm Bá Tuy sinh năm 1900 tại xã An Lạc, huyện An Dương (nay thuộcphường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, Hải Phòng). Năm 1927, anh được kết nạpvào tổ chức Việt Nam Thanh niên cách m ạng đồng chí Hội tại c ơ sở Nhà máyĐèn Hải Phòng và được phân công về gây dựng c ơ sở chỉ đạo phong trào cáchmạng tại quê hương. Cùng năm 1927, tại nhà Phạm Bá Hỗ (An Lạc) Phạm BáTuy đã tổ chức kết nạp Trương Văn Lực, Phạm Bá Hỗ, Nguyễn Văn Yên vàoViệt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, hợp th ành 1 chi bộ do TrươngVăn Lực làm Bí thư.Trong cao trào cách mạng 1930-1932 tại Hải Phòng, đồng chí Tuy và chi bộAn Lạc đã lãnh đạo nông dân hai thôn An Lạc, Cam Lộ dẫy lên phong trào đấutranh chống sưu cao thuế nặng, phong trào đòi cải cách hương thôn, đòi bàiphong phản đế.Do ở Cam Lộ có kẻ làm tay sai cho Pháp nên t ừ cuối năm 1930 đến năm 1931mật thám Pháp đã tiến hành hàng chục vụ vây bắt, l ùng sục tại An Lạc, CamLộ hòng phá được chi bộ cộng sản ở đây, cuối c ùng địch bắt được Trương VănLực và phá vỡ cơ sở Đảng, được nhân dân che chở, Phạm Bá Tuy thoát đ ượcvà chuyển vào hoạt động tại nội thành Hải Phòng. Cuối năm 1931, mới bị địchbắt. Đến năm 1932, toà Nam án xử kết án 20 năm tù giam và đày đi Côn Đảo.Năm 1936 Phạm Bá Tuy ra khỏi nhà tù đế quốc và tiếp tục hoạt động. Giữanăm 1940, bí m ật trở về An Lạc, Cam Lộ gây dựng lại cơ sở. Cuối năm 1940,đã thành lập tại An Lạc Cam Lộ, 1 tiểu tổ phản đế gồm: Phạm Bá T ường,Phạm Bá Hỗ và Phạm Thị Thiều. Năm 1942, tiểu tổ phản đế này chuyển thànhchi bộ cứu quốc hội do Phạm Bá T ường làm Bí thư.Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) khí thế phong trào cách m ạng trênđịa bàn An Dương ngày càng phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của phong trào,tháng 5/1954 Phạm Bá Tuy đã đứng ra triệu tập Hội nghị thành lập Ban lãnhđạo Việt Minh huyện An Dương gồm 7 đồng chí do Phạm Bá Tuy làm trưởngban. Sau khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi đồng chí Phạm Bá Tuy đ ượccử giữ chức Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời huyện. Sau đó theo y êu cầucủa Đảng, đồng chí được cử đi nhận công tác mới. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh nhân Việt Nam: Ông Bích Khiêm Ông Bích Khiêm (Nhâm Thìn 1832-Giáp Thân 1884)Ông Bích khiêm (Nhâm Thìn 1832-Giáp Thân 1884)Danh tướng, danh sĩ triều Tự Đức, tự là Mục Chi, sinh năm Nhâm Thìn 1832tại làng Phong L ệ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Hòa Châu,huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng), nhân dân địa phương thường gọi ông là cụTiễu Phong Lệ (Tiễu: Tiểu phủ sứ, Phong Lệ: tên làng).Ông xuất thân trong gia đình Nho giáo truyền thống, thân phụ ông l à Ông VănĐiều, một người hay chữ trong làng làm nghề nông.Năm 1847 (Thiệu Trị thứ 7) ông đỗ Cử nhân thứ 14 trong 46 vị tân khoa, khoanăm Đinh Mùi tại trường thi Thừa Thiên lúc mới 15 tuổi.Ông được bổ làm việc ở nội các, rồi chuyển ra làm tri huyện Kim Thành, HảiDương. Nhưng do bản tính ngay thẳng, bộc trực, th ương người cô thế nêntrong lúc đương nhiệm ông đụng độ với nhiều c ường hào, ác bá, ông bị bọnchúng cấu kết nhau tố cáo với triều đình, ông bị cách chức phải lui về quê.Ông đứng ra vận động quần chúng khai hoang, đắp đ ường, khơi sông ngòi,đem nước tưới cho ruộng đồng. Theo m ột số tài liệu, Ông Bích Khiêm đã vậnđộng đồng bào đắp đập, lấy nước tưới cho các đồng bào ở Phú Hoà, BànThạch. Đắp đường từ Phong Bắc, Phong Nam, Tây Nam, Nam Thạch, ĐôngHòa khiến cho sinh khí địa phương lúc bấy giờ thêm tăng.Năm 1858 tàu chiến Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, vua Tự Đức cho vời ông vàoHuế nhậm chức mới. Từ đó ông “thứa văn, quá võ” lãnh trọng trách cầm binhbình định xứ sở trước nạn ngoại xâm.Năm 1870 (Tự Đức thứ 23) Ông c ùng Tham tán Lê Bá Thận đánh tan đượcgiặc cướp ở miền cao Lục Ngạn (thuộc Cao Bằng) được thăng chức Tham chibộ Binh, phụ trách Tán lí quân thứ Lạng Bình (Lạng Sơn, Cao Bằng). Ít lâuthăng Tham tán.Đầu niên hiệu Kiến Phúc (1884) thăng thụ Thị lang tấn phong t ước Kiên TrungNam. Tháng 5-1884 ông đem 50 lính đi thanh tra Sơn phòng sứ, thẳng vềQuảng Nam. Tôn Thất Thuyết tìm cách ám hại ông, cách chức phát đi an trí ởBình Thuận. Tại đây ông uống thuốc độc tự tử trong ngục, h ưởng thọ 55 tuổi.Ngoài một danh tướng có thực tài, Ông Bích Khiêm còn là m ột nhà thơ Nômsáng giá. Ông là tác giả một số thơ chữ Hán, Nôm và sơ tấu có giá trị quốcphòng, văn học. Phạm Bá Tuy (1900 - 1996)Phạm Bá Tuy (1900 - 1996).Phạm Bá Tuy sinh năm 1900 tại xã An Lạc, huyện An Dương (nay thuộcphường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, Hải Phòng). Năm 1927, anh được kết nạpvào tổ chức Việt Nam Thanh niên cách m ạng đồng chí Hội tại c ơ sở Nhà máyĐèn Hải Phòng và được phân công về gây dựng c ơ sở chỉ đạo phong trào cáchmạng tại quê hương. Cùng năm 1927, tại nhà Phạm Bá Hỗ (An Lạc) Phạm BáTuy đã tổ chức kết nạp Trương Văn Lực, Phạm Bá Hỗ, Nguyễn Văn Yên vàoViệt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, hợp th ành 1 chi bộ do TrươngVăn Lực làm Bí thư.Trong cao trào cách mạng 1930-1932 tại Hải Phòng, đồng chí Tuy và chi bộAn Lạc đã lãnh đạo nông dân hai thôn An Lạc, Cam Lộ dẫy lên phong trào đấutranh chống sưu cao thuế nặng, phong trào đòi cải cách hương thôn, đòi bàiphong phản đế.Do ở Cam Lộ có kẻ làm tay sai cho Pháp nên t ừ cuối năm 1930 đến năm 1931mật thám Pháp đã tiến hành hàng chục vụ vây bắt, l ùng sục tại An Lạc, CamLộ hòng phá được chi bộ cộng sản ở đây, cuối c ùng địch bắt được Trương VănLực và phá vỡ cơ sở Đảng, được nhân dân che chở, Phạm Bá Tuy thoát đ ượcvà chuyển vào hoạt động tại nội thành Hải Phòng. Cuối năm 1931, mới bị địchbắt. Đến năm 1932, toà Nam án xử kết án 20 năm tù giam và đày đi Côn Đảo.Năm 1936 Phạm Bá Tuy ra khỏi nhà tù đế quốc và tiếp tục hoạt động. Giữanăm 1940, bí m ật trở về An Lạc, Cam Lộ gây dựng lại cơ sở. Cuối năm 1940,đã thành lập tại An Lạc Cam Lộ, 1 tiểu tổ phản đế gồm: Phạm Bá T ường,Phạm Bá Hỗ và Phạm Thị Thiều. Năm 1942, tiểu tổ phản đế này chuyển thànhchi bộ cứu quốc hội do Phạm Bá T ường làm Bí thư.Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) khí thế phong trào cách m ạng trênđịa bàn An Dương ngày càng phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của phong trào,tháng 5/1954 Phạm Bá Tuy đã đứng ra triệu tập Hội nghị thành lập Ban lãnhđạo Việt Minh huyện An Dương gồm 7 đồng chí do Phạm Bá Tuy làm trưởngban. Sau khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi đồng chí Phạm Bá Tuy đ ượccử giữ chức Chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời huyện. Sau đó theo y êu cầucủa Đảng, đồng chí được cử đi nhận công tác mới. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tiểu sử danh nhân Danh nhân văn hóa danh nhân lịch sử nhân vật lịch sử lịch sử việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 141 0 0 -
Nội dung và ý nghĩa quan điểm về đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm
7 trang 83 1 0 -
69 trang 70 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 59 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 55 0 0 -
11 trang 46 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 42 0 0 -
26 trang 40 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 39 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 39 0 0