Danh nhân Việt Nam: Phạm Ngọc Thảo
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 121.26 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phạm Ngọc Thảo (1922 - 1965) Sinh tại xã Mỹ Phước, tỉnh Long Xuyên (nay là An Giang). Lên Sài Gòn học trường trung học Taberd, rồi ra Hà Nội học đại học, tốt nghiệp kỹ sư công chánh. Trong kháng chiến chống Pháp, ông được cử làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ (1947), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 (Quân khu 9). Sau Hiệp định Genève 1954, ông được phân công hoạt động tình báo trong lòng địch (được phong đại tá ngụy quân, làm việc trong cơ quan mật vụ và Phủ Tổng thống ngụy quyền...), được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh nhân Việt Nam: Phạm Ngọc Thảo Phạm Ngọc Thảo (1922 - 1965)Phạm Ngọc Thảo (1922 - 1965)Sinh tại xã Mỹ Phước, tỉnh Long Xuyên (nay là An Giang).Lên Sài Gòn học trường trung học Taberd, rồi ra Hà Nội học đại học, tốtnghiệp kỹ sư công chánh.Trong kháng chiến chống Pháp, ông được cử làm Trưởng phòng Mật vụ NamBộ (1947), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 (Quân khu 9).Sau Hiệp định Genève 1954, ông được phân công hoạt động tình báo tronglòng địch (được phong đại tá ngụy quân, làm việc trong c ơ quan mật vụ và PhủTổng thống ngụy quyền...), được cử sang học tại Mỹ. Nhờ vậy, ông chuyển ravùng giải phóng nhiều tin tức và tài liệu quan trọng của địch. Ông bị địch bắtvà tra tấn dã man đến chết.Ông được Nhà nước truy phong quân hàm đại tá. Phạm Ngũ Lão (Ất Mão 1255-Canh Thân 1320)Phạm Ngũ Lão (Ất Mão 1255-Canh Thân 1320)Danh tướng đời Trần, quê làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ ThượngHồng, tỉnh Hải Dương.Ông tài liêm văn võ, được Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn tin cẩn, gả congái nuôi và ti ến cử với triều đình giữ chức Hạ phẩm phụng ngự, rồi thăng Quảnhữu vệ thánh dực giản.Trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm l ược Mông - Nguyên, ông dàycông lao lần lượt giữ các chức: Hữu Kim ngô vệ Đại t ướng quân, Thân vệ đạitướng quân, Điện súy đại t ướng quân, tước Quân Nội Hầu. Từng được ban phùvành hình rùa và phù vàng hình h ổ.Năm Canh Thân, tháng 11 Âm lịch (12-1320) ông m ất thọ 65 tuổi. Thơ vănông nay chỉ còn truyền tụng hai bài: Thuật hoài và Văn Hưng Đạo đại vương. Phạm Phú Thứ (Tân Tị 1821- Nhâm Ngọ 1882)Phạm Phú Thứ (Tân Tị 1821- Nhâm Ngọ 1882)Danh sĩ, danh thần triều nhà Nguyễn. Ông cùng với Nguyễn Trường Tộ lànhững người có quan điểm canh tân đất n ước trong những năm cuối thế kỷ 19.Ông tên thật là Phạm Hào, tự là Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu là GiáViên, Trúc Ân, người làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam(nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).Sau khi thi đỗ, vinh qui (1844), ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Lạng Giang,thăng dần lên Tổng đốc Hải An hay Tổng trấn Hải Yên (gồm 4 tỉnh Hưng Yên,Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên). Sau đó về kinh, ông được sung chứcThương chính đại thần, Tham tri bộ Binh.Năm 1849, ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư kýghi lời nói và hành động của vua) rồi sang t òa Kinh diên (phòng giảng sáchcho vua). Vốn là người cương trực, năm 1850 ông đã dâng sớ can gián vua TựĐức không nên ham mê vui chơi. Do việc này mà ông bị cách chức, đưa đi làmlính trạm ở Thừa Nông (Thừa Thiên), một thời gia n sau mới được phục chứctrở lại làm Tham tri Bộ Hình.Năm 1862, ông được bổ nhiệm chức Tham tri bộ Lại, hàm Tòng Nhị phẩm.Cùng năm đó, ông được cử làm phó sứ trong phái bộ Phan Thanh Giản sangPháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ. Trong khi ở Pháp ông c òn đi thăm cácnước châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Qua chuyến đi này,ông rút ra được nhận thức rằng, chỉ có con đ ường canh tân mới giúp đất n ướcthoát khỏi thảm họa lạc hậu.Khi về nước ông có dâng lên vua Tự Đức và triều thần một số tài liệu chi chéptrong chuyến công tác vừa qua và một số bài viết quan trọng, kiến nghị triềuđình thay đổi chính sách mới có thể tồn tại đ ược, cùng một số sách khoa họcthực nghiệm và thơ văn trên đường công cán do ông ghi chép:••••••Tuy nhiên, hầu hết những đề nghị của ông đều bị vua Tự Đức và các đại thầnbảo thủ bác bỏ.Năm 1865 ông được thăng chức Thự Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hộ (Tàichánh), đồng thời sung chức Cơ mật viện Đại thần.Ông mất năm Nhâm Ngọ 1883, thọ 63 tuổi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh nhân Việt Nam: Phạm Ngọc Thảo Phạm Ngọc Thảo (1922 - 1965)Phạm Ngọc Thảo (1922 - 1965)Sinh tại xã Mỹ Phước, tỉnh Long Xuyên (nay là An Giang).Lên Sài Gòn học trường trung học Taberd, rồi ra Hà Nội học đại học, tốtnghiệp kỹ sư công chánh.Trong kháng chiến chống Pháp, ông được cử làm Trưởng phòng Mật vụ NamBộ (1947), Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 (Quân khu 9).Sau Hiệp định Genève 1954, ông được phân công hoạt động tình báo tronglòng địch (được phong đại tá ngụy quân, làm việc trong c ơ quan mật vụ và PhủTổng thống ngụy quyền...), được cử sang học tại Mỹ. Nhờ vậy, ông chuyển ravùng giải phóng nhiều tin tức và tài liệu quan trọng của địch. Ông bị địch bắtvà tra tấn dã man đến chết.Ông được Nhà nước truy phong quân hàm đại tá. Phạm Ngũ Lão (Ất Mão 1255-Canh Thân 1320)Phạm Ngũ Lão (Ất Mão 1255-Canh Thân 1320)Danh tướng đời Trần, quê làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ ThượngHồng, tỉnh Hải Dương.Ông tài liêm văn võ, được Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn tin cẩn, gả congái nuôi và ti ến cử với triều đình giữ chức Hạ phẩm phụng ngự, rồi thăng Quảnhữu vệ thánh dực giản.Trong hai cuộc kháng chiến chống quân xâm l ược Mông - Nguyên, ông dàycông lao lần lượt giữ các chức: Hữu Kim ngô vệ Đại t ướng quân, Thân vệ đạitướng quân, Điện súy đại t ướng quân, tước Quân Nội Hầu. Từng được ban phùvành hình rùa và phù vàng hình h ổ.Năm Canh Thân, tháng 11 Âm lịch (12-1320) ông m ất thọ 65 tuổi. Thơ vănông nay chỉ còn truyền tụng hai bài: Thuật hoài và Văn Hưng Đạo đại vương. Phạm Phú Thứ (Tân Tị 1821- Nhâm Ngọ 1882)Phạm Phú Thứ (Tân Tị 1821- Nhâm Ngọ 1882)Danh sĩ, danh thần triều nhà Nguyễn. Ông cùng với Nguyễn Trường Tộ lànhững người có quan điểm canh tân đất n ước trong những năm cuối thế kỷ 19.Ông tên thật là Phạm Hào, tự là Giáo Chi, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu là GiáViên, Trúc Ân, người làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam(nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam).Sau khi thi đỗ, vinh qui (1844), ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Lạng Giang,thăng dần lên Tổng đốc Hải An hay Tổng trấn Hải Yên (gồm 4 tỉnh Hưng Yên,Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên). Sau đó về kinh, ông được sung chứcThương chính đại thần, Tham tri bộ Binh.Năm 1849, ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư kýghi lời nói và hành động của vua) rồi sang t òa Kinh diên (phòng giảng sáchcho vua). Vốn là người cương trực, năm 1850 ông đã dâng sớ can gián vua TựĐức không nên ham mê vui chơi. Do việc này mà ông bị cách chức, đưa đi làmlính trạm ở Thừa Nông (Thừa Thiên), một thời gia n sau mới được phục chứctrở lại làm Tham tri Bộ Hình.Năm 1862, ông được bổ nhiệm chức Tham tri bộ Lại, hàm Tòng Nhị phẩm.Cùng năm đó, ông được cử làm phó sứ trong phái bộ Phan Thanh Giản sangPháp chuộc 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ. Trong khi ở Pháp ông c òn đi thăm cácnước châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Qua chuyến đi này,ông rút ra được nhận thức rằng, chỉ có con đ ường canh tân mới giúp đất n ướcthoát khỏi thảm họa lạc hậu.Khi về nước ông có dâng lên vua Tự Đức và triều thần một số tài liệu chi chéptrong chuyến công tác vừa qua và một số bài viết quan trọng, kiến nghị triềuđình thay đổi chính sách mới có thể tồn tại đ ược, cùng một số sách khoa họcthực nghiệm và thơ văn trên đường công cán do ông ghi chép:••••••Tuy nhiên, hầu hết những đề nghị của ông đều bị vua Tự Đức và các đại thầnbảo thủ bác bỏ.Năm 1865 ông được thăng chức Thự Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Hộ (Tàichánh), đồng thời sung chức Cơ mật viện Đại thần.Ông mất năm Nhâm Ngọ 1883, thọ 63 tuổi.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tiểu sử danh nhân Danh nhân văn hóa danh nhân lịch sử nhân vật lịch sử lịch sử việt namTài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 148 0 0 -
Nội dung và ý nghĩa quan điểm về đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm
7 trang 88 1 0 -
69 trang 87 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 60 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 59 0 0 -
11 trang 52 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0 -
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 43 0 0 -
26 trang 42 0 0