Danh mục

Đất đai - Nguồn lực chính để phát triển

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 221.36 KB      Lượt xem: 29      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết "Đất đai - Nguồn lực chính để phát triển" bàn về 4 vấn đề về nguồn thu từ đất tại Việt Nam cần xem xét để tiếp tục đổi mới bao gồm: (1) hoàn thiện hệ thống định giá đất; (2) phân loại và cụ thể hóa các cơ chế thu giá trị đất công khi đưa vào thị trường; (3) đổi mới hệ thống thuế và phí liên quan đến đất đai; (4) xác định rõ cơ chế thu giá trị đất đai tăng thêm không do đầu tư của người sử dụng đất tạo nên. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung bài viết!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đất đai - Nguồn lực chính để phát triển ĐẤT ĐAI - NGUỒN LỰC CHÍNH ĐỂ PHÁT TRIỂN GS.TSKH. Đặng Hùng Võ Đại học Quốc gia Hà Nội I. Giới thiệu vấn đề Ở tất cả các nước phát triển nguồn thu từ thuế đất đai và tài sản gắn liền với đất luôn chiếm 50 - 90% tổng thu cho ngân sách địa phương. Nguồn thu này là nguồn lực chính cho phát triển địa phương, nhất là các đô thị. Mặt khác, thuế có liên quan đến đất đai không chỉ có chức năng tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn là một công cụ tài chính để điều tiết thị trường bất động sản (BĐS), cũng như là một chính sách điều tiết phát triển đô thị. Đây là những công cụ rất hữu hiệu để điều chỉnh trong trường hợp sốt giá đất, chống đầu cơ tích trữ đất đai và kiểm soát dòng người di cư tự phát vào các đô thị. Trong quá trình công nghiệp hóa, để thực hiện giai đoạn ban đầu cần tới một giải pháp tích lũy vốn đầu tư rất lớn. Trong kinh tế học, người ta gọi đây là giai đoạn tích lũy vốn ban đầu hay tích lũy tư bản ban đầu. Nguồn vốn này được tích lũy nhờ việc đưa đất công thuộc sở hữu nhà nước vào thị trường cho khu vực sở hữu tư nhân để sử dụng. Sau đó, nhà nước đánh thuế BĐS, bao gồm cả đất đai thuộc sở hữu tư nhân để tăng thêm vốn cho khu vực công nhằm phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Tất cả những nước biết tận dụng nguồn vốn từ đất đai đều đã thành công trong quá trình công nghiệp hóa, cụ thể là 7 nước công nghiệp phát triển hiện nay (G7). Đây chính là lý thuyết kinh tế chính trị học cơ bản về đất đai của trường phái kinh tế học cổ điển từ cuối Thế kỷ 18 với đại diện là Adam Smith [1] và David Ricardo [2], đất đai được coi là bản chất và nguyên nhân tạo nên sự thịnh vượng của các quốc gia, được thể hiện thông qua việc sử dụng giá trị đất công và thuế đất. Như vậy, vốn từ đất đai trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa là giá trị đất công (public land value) thu được trong quá trình chuyển đất công vào thị trường để sử dụng trong khu vực tư nhân. Thuế đối với đất đai và tài sản trên đất (thuế tài sản BĐS - property tax) thuộc khu vực tư nhân sử dụng là nguồn vốn từ đất đai để tiếp tục quá trình đầu tư phát triển. Bên cạnh thuế thu từ sử dụng đất trong khu vực tư nhân, còn một khoản thu về đất đai là thu từ các loại phí liên quan đến quản lý đất đai như phí đăng ký đất đai, phí đo đạc địa chính, v.v. Từ lý thuyết chung của trường phái kinh tế học cổ điển, sau này còn nhiều lý luận khác về thuế đất mang lại hiệu quả cao hơn trong kích thích phát triển. Có thể lấy ví dụ như lý thuyết về nhất thể hóa thuế dựa trên đất đai do nhà kinh tế - chính trị học Hoa Kỳ Henry George [3] đề xuất đã được áp dụng ở Hoa Kỳ và một số nước thuộc các lục địa khác. 17 Trước năm 2000, nhà kinh tế - chính trị học đại diện cho các nước đang phát triển Hernando De Soto [4] (Peru) đã đưa ra các phương thức làm tăng giá trị đất đai trong quá trình đầu tư phát triển như hoàn thiện tính pháp lý của thửa đất, đơn giản hóa thủ tục hành chính về đất đai, phương án quy hoạch tạo được giá trị tăng thêm của đất, phát triển hạ tầng và dịch vụ công cộng liên quan đến đất đai, làm cho giá trị đất công cũng như thuế đối với sử dụng đất trong khu vực tư nhân tăng lên. Đây là quá trình thu giá trị đất đai tăng thêm (betterment levies capture) không phải do đầu tư của người giữ đất mang lại. Có thể khái quát đó là việc khai thác giá trị đất đai hay thực hiện vốn hóa đất đai để tạo lập nguồn vốn tài chính cho đầu tư phát triển tại các nước đang phát triển. Hernando De Soto gọi đó là sự bí ẩn của nguồn vốn tiềm ẩn trong đất đai. Lý thuyết này là chỗ dựa để nhiều nước công nghiệp mới đã thành công trong quá trình công nghiệp hóa vì sử dụng được nguồn vốn ẩn trong đất, Hàn Quốc là một ví dụ điển hình. Như vậy, thu từ đất đai bao gồm 3 nguồn thu: (1) thu từ giá trị đất công khi đưa vào thị trường để sử dụng trong khu vực tư nhân; (2) thu từ thuế và phí liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai; và (3) thu từ giá trị đất đai tăng thêm mà không do đầu tư của người có đất thực hiện (xin xem sơ đồ dưới đây). Tất cả các nguồn thu này đều phụ thuộc vào công cụ định giá đất. Yêu cầu của công cụ này là xác định giá đất sao cho phù hợp với giá trị thị trường. Xác định giá đất cao hơn sẽ kìm hãm đầu tư trên đất vì nghĩa vụ tài chính quá lớn; ngược lại, xác định giá đất thấp hơn sẽ làm thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước. CÁC NGUỒN THU TỪ ĐẤT ĐAI QUAN ĐẾN QUẢN LÝ VÀ SỬ NGƯỜI SỬ DỤNG ĐẤT ĐẦU TĂNG THÊM KHÔNG DO THU GIÁ TRỊ ĐẤT CÔNG THU THUẾ VÀ PHÍ LIÊN THU GIÁ TRỊ ĐẤT ĐAI KHI ĐƯA VÀO THỊ DỤNG ĐẤT ĐAI TRƯỜNG TƯ CÔNG CỤ ĐỊNH GIÁ ĐẤT ĐỂ XÁC ĐỊNH ĐÚNG GIÁ TRỊ ĐẤT ĐAI Sơ đồ mô tả các nguồn thu từ đất đai Đối với Việt Nam, hệ thống pháp luật đất đai đã xác định 3 nguồn thu tương tự như đã chỉ ra ở trên dựa vào lý luận của các lý thuyết kinh tế chính trị học về đất đai. Nguồn 18 thu từ thuế và phí được quy định cụ thể trong Luật Đất đai và các Luật thuế, phí liên quan đến đất đai và được ngành tài chính thống kê theo các hạng mục rất rõ ràng. Nguồn thu từ giá trị đất công cũng được quy đ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: