Đau đầu do thuốc
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 361.83 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
(SKDS) - Đau đầu liên quan đến thuốc có thể xảy ra tức thì sau một vài lần dùng thuốc hoặc một quá trình dùng kéo dài hoặc trong quá trình giảm liều và cai một loại thuốc. Đau đầu được cho là do thuốc nếu cơn đau đầu tiên xảy ra ngay sau thời điểm dùng thuốc và giảm dần hoặc biến mất sau khi ngưng dùng thuốc, bất chấp đặc điểm của cơn đau có thể giống với các thể đau đầu khác như đau đầu Migraine, đau đầu vận mạch... Đau đầu cũng có thể được quy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đau đầu do thuốcĐau đầu do thuốc(SKDS) - Đau đầu liên quan đến thuốc có thể xảy ra tức thì sau một vài lầndùng thuốc hoặc một quá trình dùng kéo dài hoặc trong quá trình giảm liềuvà cai một loại thuốc. Đau đầu được cho là do thuốc nếu cơn đau đầu tiênxảy ra ngay sau thời điểm dùng thuốc và giảm dần hoặc biến mất sau khingưng dùng thuốc, bất chấp đặc điểm của cơn đau có thể giống với các thểđau đầu khác như đau đầu Migraine, đau đầu vận mạch...Đau đầu cũng có thể được quy là do thuốc nếu tình trạng đau đầu đã có từtrước nhưng nặng lên ngay sau khi dùng thuốc. Có 2 thể đau đầu do thuốcthường gặp nhất là đau đầu do tác dụng phụ không mong muốn của thuốc vàđau đầu do lạm dụng thuốc.Đau đầu do tác dụng không mong muốn của thuốc có thể xảy ra vớinhiều loại thuốc khác nhau. Các dẫn xuất của nitơ oxit (NO) như amylnitrate, erythrityl tetranitrate, isosorbide mono hoặc dinitrate, natrinitroprusside, nitroglycerin, mannitol hexanitrate, pentaerythritol tetranitratevà trinitrate phosphate đều có thể gây các cơn đau đầu cấp hoặc khá muộnsau dùng thuốc. Đau đầu cấp do nhóm thuốc này thường ở vùng thái dương– đỉnh, đối xứng 2 bên, dao động theo nhịp mạch và bị khởi phát bởi hoạtđộng thể lực. Với thuốc tiêm truyền, đau đầu thường xảy ra sau tiêm thuốc2-5 phút và kéo dài khoảng 10 phút sau khi ngưng tiêm truyền. Lạm dụng thuốc giảm đau có thể gây đau đầu.Đau đầu muộn do nhóm thuốc này ít khi xuất hiện ở người khỏe mạnh màthường gặp ở những người có bệnh đau đầu từ trước như đau đầu Migraine.Các cơn đau đầu muộn này thường gặp ở vùng thái dương đỉnh, xuất hiện từ1-5 giờ sau khi thuốc đã được thải trừ khỏi máu. Đau đầu do nitroglycerin cóthể giảm dần nếu thuốc được sử dụng liên tục trong ít nhất 1 tuần. Isosorbidemononitrate thường gây đau đầu kéo dài hơn so với nitroglycerin do thuốcđược thải trừ chậm hơn.Các thuốc ức chế men phosphodiesterase như sildenafil (viagra) vàdipyridamole cũng có thể gây đau đầu. Nghiên cứu cho thấy, sildenafil cóthể gây ra các cơn đau đầu một pha ở phần lớn những người trẻ tuổi dùngthuốc, đặc biệt là phụ nữ và những người có bệnh đau đầu Migraine. Đặcđiểm của đau đầu do sidenafil tương tự như đau đầu do các dẫn xuất NO,nhưng thường xuất hiện tương đối muộn (trong vòng 5 giờ sau dùng thuốc)và kéo dài trong khoảng 3 ngày, có thể xảy ra chỉ sau một liều đơn lẻ củathuốc. Một số thuốc khác có thể gây đau đầu với các mức độ khác nhau nhưnifedipine, thuốc hạ mỡ máu statin (simvastatin, atorvastatin…), viên tránhthai, các thuốc chống viêm giảm đau (meloxicam, diclofenac…).Đau đầu do lạm dụng thuốc: Bệnh nhân có các bệnh lý đau đầu mạn tínhnhư đau đầu Migraine thường có xu hướng lạm dụng các thuốc giảm đau,ergotamine hoặc nhóm triptan. Bản thân sự lạm dụng này có thể gây ra cáccơn đau đầu mạn tính hằng ngày, điều này làm người bệnh bị lệ thuộc vàocác thuốc cắt triệu chứng và giảm hiệu quả của điều trị dự phòng. Ngưngdùng các thuốc này có thể gây ra hội chứng cai thuốc với biểu hiện buồnnôn, đau đầu tăng dần trong một thời gian, sau đó, tình trạng sẽ có thể đượccải thiện. Ở những bệnh nhân với các bệnh lý đau đầu từ trước và có lạmdụng các thuốc điều trị, nếu xuất hiện các dạng đau đầu mới hoặc tình trạngđau đầu nặng lên thì cần được cân nhắc chẩn đoán đau đầu do lạm dụngthuốc. Các nhóm thuốc được chứng minh là có thể gây ra đau đầu do lạmdụng thuốc là ergotamine, nhóm triptan, các thuốc chống viêm giảm đau, cácdẫn xuất thuốc phiện và thuốc phối hợp của các nhóm này.Đau đầu do lạm dụng thuốc xảy ra ở nữ giới nhiều gấp 3 - 4 lần so với namgiới. Trong điều trị, người bệnh cần có chế độ sinh hoạt điều độ, giảm bớtcác sang chấn tâm lý và tập luyện thể dục thể thao. Đối với bệnh nhân điềutrị ngoại trú tại nhà, có 2 chiến lược điều trị cơ bản được áp dụng: Giảm dầnliều dùng của các thuốc đang bị lạm dụng và thay thế dần bằng một thuốcchống viêm giảm đau tác dụng kéo dài; Ngừng ngay lập tức các thuốc đangbị lạm dụng và thay thế bằng một thuốc trung gian như các thuốc chốngviêm giảm đau (như naproxen), dihydroergotamine, methylergonovine hoặccorticosteroid. Khi ngưng đột ngột các thuốc đang bị lạm dụng, cần lưu ýphòng ngừa hội chứng cai thuốc.Ví dụ như hội chứng cai thuốc do ngưng dùng đột ngột butalbital có thểđược dự phòng bằng phenobarbital liều thấp. Nếu điều trị ngoại trú thất bạihoặc không an toàn, người bệnh cần được điều trị tại bệnh viện. Các vấn đềcơ bản của điều trị nội trú đối với đau đầu do lạm dụng thuốc bao gồm: khửđộc, bù dịch, giảm đau bằng các thuốc tiêm truyền, dự phòng có hiệu quảđau đầu, cắt chu kỳ đau đầu, giáo dục người bệnh và tìm kiếm phương phápkiểm soát đau đầu sau khi xuất viện. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đau đầu do thuốcĐau đầu do thuốc(SKDS) - Đau đầu liên quan đến thuốc có thể xảy ra tức thì sau một vài lầndùng thuốc hoặc một quá trình dùng kéo dài hoặc trong quá trình giảm liềuvà cai một loại thuốc. Đau đầu được cho là do thuốc nếu cơn đau đầu tiênxảy ra ngay sau thời điểm dùng thuốc và giảm dần hoặc biến mất sau khingưng dùng thuốc, bất chấp đặc điểm của cơn đau có thể giống với các thểđau đầu khác như đau đầu Migraine, đau đầu vận mạch...Đau đầu cũng có thể được quy là do thuốc nếu tình trạng đau đầu đã có từtrước nhưng nặng lên ngay sau khi dùng thuốc. Có 2 thể đau đầu do thuốcthường gặp nhất là đau đầu do tác dụng phụ không mong muốn của thuốc vàđau đầu do lạm dụng thuốc.Đau đầu do tác dụng không mong muốn của thuốc có thể xảy ra vớinhiều loại thuốc khác nhau. Các dẫn xuất của nitơ oxit (NO) như amylnitrate, erythrityl tetranitrate, isosorbide mono hoặc dinitrate, natrinitroprusside, nitroglycerin, mannitol hexanitrate, pentaerythritol tetranitratevà trinitrate phosphate đều có thể gây các cơn đau đầu cấp hoặc khá muộnsau dùng thuốc. Đau đầu cấp do nhóm thuốc này thường ở vùng thái dương– đỉnh, đối xứng 2 bên, dao động theo nhịp mạch và bị khởi phát bởi hoạtđộng thể lực. Với thuốc tiêm truyền, đau đầu thường xảy ra sau tiêm thuốc2-5 phút và kéo dài khoảng 10 phút sau khi ngưng tiêm truyền. Lạm dụng thuốc giảm đau có thể gây đau đầu.Đau đầu muộn do nhóm thuốc này ít khi xuất hiện ở người khỏe mạnh màthường gặp ở những người có bệnh đau đầu từ trước như đau đầu Migraine.Các cơn đau đầu muộn này thường gặp ở vùng thái dương đỉnh, xuất hiện từ1-5 giờ sau khi thuốc đã được thải trừ khỏi máu. Đau đầu do nitroglycerin cóthể giảm dần nếu thuốc được sử dụng liên tục trong ít nhất 1 tuần. Isosorbidemononitrate thường gây đau đầu kéo dài hơn so với nitroglycerin do thuốcđược thải trừ chậm hơn.Các thuốc ức chế men phosphodiesterase như sildenafil (viagra) vàdipyridamole cũng có thể gây đau đầu. Nghiên cứu cho thấy, sildenafil cóthể gây ra các cơn đau đầu một pha ở phần lớn những người trẻ tuổi dùngthuốc, đặc biệt là phụ nữ và những người có bệnh đau đầu Migraine. Đặcđiểm của đau đầu do sidenafil tương tự như đau đầu do các dẫn xuất NO,nhưng thường xuất hiện tương đối muộn (trong vòng 5 giờ sau dùng thuốc)và kéo dài trong khoảng 3 ngày, có thể xảy ra chỉ sau một liều đơn lẻ củathuốc. Một số thuốc khác có thể gây đau đầu với các mức độ khác nhau nhưnifedipine, thuốc hạ mỡ máu statin (simvastatin, atorvastatin…), viên tránhthai, các thuốc chống viêm giảm đau (meloxicam, diclofenac…).Đau đầu do lạm dụng thuốc: Bệnh nhân có các bệnh lý đau đầu mạn tínhnhư đau đầu Migraine thường có xu hướng lạm dụng các thuốc giảm đau,ergotamine hoặc nhóm triptan. Bản thân sự lạm dụng này có thể gây ra cáccơn đau đầu mạn tính hằng ngày, điều này làm người bệnh bị lệ thuộc vàocác thuốc cắt triệu chứng và giảm hiệu quả của điều trị dự phòng. Ngưngdùng các thuốc này có thể gây ra hội chứng cai thuốc với biểu hiện buồnnôn, đau đầu tăng dần trong một thời gian, sau đó, tình trạng sẽ có thể đượccải thiện. Ở những bệnh nhân với các bệnh lý đau đầu từ trước và có lạmdụng các thuốc điều trị, nếu xuất hiện các dạng đau đầu mới hoặc tình trạngđau đầu nặng lên thì cần được cân nhắc chẩn đoán đau đầu do lạm dụngthuốc. Các nhóm thuốc được chứng minh là có thể gây ra đau đầu do lạmdụng thuốc là ergotamine, nhóm triptan, các thuốc chống viêm giảm đau, cácdẫn xuất thuốc phiện và thuốc phối hợp của các nhóm này.Đau đầu do lạm dụng thuốc xảy ra ở nữ giới nhiều gấp 3 - 4 lần so với namgiới. Trong điều trị, người bệnh cần có chế độ sinh hoạt điều độ, giảm bớtcác sang chấn tâm lý và tập luyện thể dục thể thao. Đối với bệnh nhân điềutrị ngoại trú tại nhà, có 2 chiến lược điều trị cơ bản được áp dụng: Giảm dầnliều dùng của các thuốc đang bị lạm dụng và thay thế dần bằng một thuốcchống viêm giảm đau tác dụng kéo dài; Ngừng ngay lập tức các thuốc đangbị lạm dụng và thay thế bằng một thuốc trung gian như các thuốc chốngviêm giảm đau (như naproxen), dihydroergotamine, methylergonovine hoặccorticosteroid. Khi ngưng đột ngột các thuốc đang bị lạm dụng, cần lưu ýphòng ngừa hội chứng cai thuốc.Ví dụ như hội chứng cai thuốc do ngưng dùng đột ngột butalbital có thểđược dự phòng bằng phenobarbital liều thấp. Nếu điều trị ngoại trú thất bạihoặc không an toàn, người bệnh cần được điều trị tại bệnh viện. Các vấn đềcơ bản của điều trị nội trú đối với đau đầu do lạm dụng thuốc bao gồm: khửđộc, bù dịch, giảm đau bằng các thuốc tiêm truyền, dự phòng có hiệu quảđau đầu, cắt chu kỳ đau đầu, giáo dục người bệnh và tìm kiếm phương phápkiểm soát đau đầu sau khi xuất viện. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chứng đau đầu nguyên nhân đau đầu phòng ngừa đau đầu y học cơ sở kiến thức về thuốc kiến thức y họcTài liệu liên quan:
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 183 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 109 0 0 -
4 trang 109 0 0
-
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 76 0 0 -
Giáo trình Y học cơ sở (Tài liệu dành cho Dược trung cấp) - Trường Trung cấp Y tế Tây Ninh
285 trang 60 1 0 -
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 53 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 47 0 0