Danh mục

Đau Ngực Không do Tim

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 100.94 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bà Lê TT 57 tuổi bị cao huyết áp và cao mỡ từ 2 năm. Cách nay 3 tháng, sau khi ăn tối bệnh nhân bị đau ngực, đến cấp cứu. Tại cấp cứu, áp huyết 186/80, bệnh nhân được nhập viện để theo dõi tim liên tục vì tăng áp huyết, đau ngực không điển hình, loại bỏ hội chứng vành cấp. Bệnh nhân mãn kinh năm 51 tuổi, có 5 con đều ở riêng, từ 6 năm bà ở nhà với chồng, không làm gì. Bệnh nhân đã có những cơn đau ngực từ 3 ngày trước,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đau Ngực Không do Tim Đau Ngực Không do Tim Bà Lê TT 57 tuổi bị cao huyết áp và cao mỡ từ 2 năm. Cách nay 3tháng, sau khi ăn tối bệnh nhân bị đau ngực, đến cấp cứu. Tại cấp cứu, áphuyết 186/80, bệnh nhân được nhập viện để theo dõi tim liên tục vì tăng áphuyết, đau ngực không điển hình, loại bỏ hội chứng vành cấp. Bệnh nhânmãn kinh năm 51 tuổi, có 5 con đều ở riêng, từ 6 năm bà ở nhà với chồng,không làm gì. Bệnh nhân đã có những cơn đau ngực từ 3 ngày trước, đauphía trên bên trái, có lúc lại đau vùng chấn thủy, đau khi nghỉ, kéo dài 3-5phút, không đổ mồ hôi, không khó thở, không lan ra tay hay lên cổ. Thămkhám nhịp tim đều, tiếng tim bình thường. Lồng ngực và phổi bình thường,độ bão hòa oxygen 99%, điện tâm đồ, các men tim (CK, CKMB, Troponin)trong máu và Catecholamines trong nước tiểu bình thường, CT mạch máuphổi với chất cản quang không thấy thuyên tắc, nghiệm pháp gắng sứcthallium cho thấy tưới máu cơ tim bình thường. Bệnh nhân được xuất việnsau 3 ngày để uống thuốc hạ áp và hạ mỡ. Bà có trại gà ở cách Atlanta 5 giờ lái xe, từ khi sợ đau tim bà phải ởlại Atlanta “để dễ chữa bệnh, đề phòng trường hợp khẩn cấp”. Bệnh nhânđến tham khảo ý kiến về điều trị. Sau khi phân tích bệnh sử, yếu tố nguy cơvà các xét nghiệm, tái xác định đau ngực không do tim, khuyên bệnh nhânnên yên tâm, có thể về sinh họat ở nông trại, tiếp tục điều trị và theo dõi. Bàn luận. - Cả bệnh nhân và bác sĩ đều có lý do để sợ đau tim khi bệnh nhân bịđau ngực nhất là đau ngực ở một người có tuổi, cao huyết áp và cao mỡ.Cũng nên nói thêm rằng triệu chứng của bệnh mạch vành ở phụ nữ thườngkhông điển hình khiến cho một số phụ nữ không được chẩn đoán và điều trịkịp thời như nam giới. Bệnh nhân này đã làm đúng khi đi cấp cứu để đượckhảo sát về tim mạch nhưng vẫn còn hoang mang. Trong sách vở triệu chứng đau ngực được mô tả chú trọng vào đautim; trong thực tế lâm sàng đau ngực rất thường gặp và do nhiều nguyênnhân khác nhau: 60% không có nguyên nhân cơ thể, trong số nguyên nhâncơ thể, phần lớn là đau cơ khớp, tiếp theo là trào ngược dịch vị, chỉ một sốnhỏ do nguyên nhân tim mạch. Tuy vậy đứng trước một trường hợp đau ngực, bác sĩ lâm sàng baogiờ cũng phải thận trọng tìm hoặc lọai bỏ các trường hợp khẩn cấp như cơnđau thắt ngực, thuyên tắc mạch máu phổi, tràn khí màng phổi, bóc tách độngmạch chủ, tràn dịch màng tim, màng phổi. Với cảnh giác cao, bằng hỏi bệnh sử tỉ mỉ, phân tích các yếu tố nguycơ, thăm khám đầy đủ, bác sĩ lâm sàng có thể đạt đến chẩn đoán chính xáctrong 88% các trường hợp. Đối với các trường hợp không rõ, cần làm thêmcác xét nghiệm bổ túc như điện tâm đồ, X quang phổi, nghiệm pháp gắngsức, siêu âm tim...Như vậy có thể xử trí một cách có hiệu quả kinh tế đa sốcác trường hợp thông thường và không bỏ sót các trường hợp nguy kịch. Lượng giá lâm sàng trước xét nghịệm giúp giải thích kết quả một cáchchính xác hơn. 1.- Bệnh nhân này không có cơn đau điển hình. Người bị “cơn đauthắt ngực” thật sự thường không kêu đau, họ mô tả triệu chứng như bị đènặng trước ngực, cảm giác khó chịu ở giữa ngực, lan ra tay trái, lên cổ hoặclên hàm, liên hệ với gắng sức. Đặc tính của cơn đau giống nhau, những cơnđau thay đổi vị trí hoặc đặc tính và những kiểu đau “nhói”, như tia chớp, cóvị trí khu trú thường không do bệnh mạch vành. 2.- Tuy mãn kinh, có cao huyết áp, cao mỡ, bệnh nhân này tương đốicó ít nguy cơ mạch vành vì là nữ dưới 60 tuổi, không hút thuốc lá, không bịtiểu đường, không có tiền căn gia đình. Chỉ số nguy cơ tim mạchFramingham ở bệnh nhân này trong 10 năm là 5%. 3.- Nghiệm pháp gắng sức thallium âm đã lọai bỏ hẹp động mạchvành cũng như hội chứng tim X (cardiac X syndrome) và có thể cả cơn đauthắt ngực biến đổi do co thắt (variant angina, hội chứng Prinzmetal). Hộichứng tim X là đau thắt ngực ổn định (stable angina) xảy ra ở phụ nữ trướcvà sau mãn kinh, động mạch vành lớn bình thường nhưng triệu chứng dobệnh của động mạch nhỏ gây ST chênh xuống và tưới máu cơ tim giảm khilàm nghiệm pháp gắng sức. Trong cơn đau thắt ngực biến đổi, triệu chứngđau do co thắt ở một chỗ hẹp khu trú của động mạch vành, thường xảy ra ởphụ nữ trẻ có sóng ST chênh lên khi đau hoặc khi làm nghiệm pháp gắngsức. Bệnh nhân thường đau từ nửa đêm đến sáng, có thể kèm rối lọan nhịpthất. Trong trường hợp nghi ngờ cơn đau thắt ngực biến đổi có thể chụpmạch vành và kích thích bằng ergonovine, nghiệm pháp này ngày nay ít cònđược dùng 4.- Bệnh nhân không có bệnh mạch vành nhưng lo sợ bị đau tim cótiên lượng cơ thể tốt nhưng đời sống tâm lý và khả năng làm việc bị giảm sútvì sự ám ảnh của bệnh tim. Những người được chẩn đoán “đau ngực khôngdo tim” thường được trấn an rồi cho về, cho rằng các xét nghiệm âm tính cósức thuyết phục bệnh nhân. Trong thực tế họ đều có yếu tố tinh thần lo sợ vàvẫn tiếp tục có triệu chứng. Katherine ...

Tài liệu được xem nhiều: