Vào mùa hè năm 1992, lúc ông được năm mươi lăm tuổi và sáu tháng và đang sống trong hạnh phúc của cuộc hôn nhân thứ hai, Harvey Sander có một số vấn đề bệnh tật phát sinh. Thị lực của ông mờ đi, đôi lúc ông chợt thức giấc nửa đêm trong khi mồ hôi đầm đìa, ông bắt đầu đi tiểu thường xuyên, và ông trở nên bất lực (impotent). Sự thay đổi sau cùng là khó chịu nhất, vì ông và bà vợ Phyllis mới của ông, đã có những quan hệ sinh lý mặn nồng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Để lành bệnh tự nhiên - Phần 5 Để lành bệnh tự nhiên Chương 2 (tt)Những Gương Mặt Của Sự Lành Lặn: Harvey Và Phyllis Vào mùa hè năm 1992, lúc ông được năm mươi lăm tuổi và sáu thángvà đang sống trong hạnh phúc của cuộc hôn nhân thứ hai, Harvey Sander cómột số vấn đề bệnh tật phát sinh. Thị lực của ông mờ đi, đôi lúc ông chợtthức giấc nửa đêm trong khi mồ hôi đầm đìa, ông bắt đầu đi tiểu thườngxuyên, và ông trở nên bất lực (impotent). Sự thay đổi sau cùng là khó chịunhất, vì ông và bà vợ Phyllis mới của ông, đã có những quan hệ sinh lý mặnnồng vào một khoảng thời gian nào đó. Ông nói, Tôi càng ngày càng khólàm công việc của một người đàn ông trong chuyện chăn gối, nên tôi khôngvào giường ngủ nữa. Ông đổ hết mọi chuyện là do căng thẳng và không đikhám bác sĩ. Bà Phyllis nói, Tôi không muốn áp lực ông, nhưng qua một thời gianngắn nó làm cho tôi xuống dốc. Công việc của Harvey là một người quản lývề tiền bạc đã làm cho ông bị phần nào căng thẳng; nhưng theo lời của bàPhyllis thì, Thật tình cuộc sống của chúng tôi tương đối tốt. Sau chừng vàitháng, Harvey tới tìm một bác sĩ tâm thần chuyên trị về chứng sinh dục rốiloạn (sexual dysfunction). Bà vợ thì đòi thử máu, mà một trong cuộc thử đólà thử hóc-môn ở tuyến yên (pituitary hormone) và kết quả cho thấy là bấtbình thường. Rồi một bác sĩ về mắt bắt đi chiếu loại MRI cho bộ óc, và cuộcthử nghiệm này cho biết có một khối u nằm sau cặp mắt của Harvey. Ở vị trínày nó đè nặng lên trên một trung tâm quan trọng (hypothalamus) vốn kiểmsoát tuyến yên, và qua tuyến này, kiểm soát nhiều nhiệm vụ không tùy ý(involuntary function) của cơ thể. Nó cũng làm ảnh hưởng tới hệ thần kinhcủa mắt. Từ vị trí cũng như vẻ biểu hiện, những bác sĩ của Harvey cho rằngmụt nhọt này thuộc loại lành (benign)- có thể thuộc loại glioma haycraniopharyngioma. Loại đầu là một loại mụt cứng lớn lên từ tế bào vốn hỗtrợ những dây thần kinh. Loại sau lớn lên từ những tế bào chưa phát triển bịbỏ lại từ những phát triển của bào thai và có khuynh hướng trở thành u nang(cystic), chứa đựng trong những túi đầy chứa dung dịch để trợ thêm vào tếbào; nó thường xuất hiện ở những người trẻ hơn Harvey, nhưng có thể lớnlên chậm chạp trong một thời gian dài trước khi nó đến một kích thước đủ đểảnh hưởng đến nhiệm vụ của óc. Bộ óc là một phần cơ thể mà sự phân biệt giữa mụt nhọt lành và áctính không có quan trọng ngay lập tức như nó thường có. Vấn đề ở đây là vếtthương tổn chiếm một khoảng cách, tạo nên một sự áp lực lên những trungtâm quan yếu trong một khu vực hạn chế. Nó cần phải dời đổi hay làm choteo đi. Harvey và Phyllis đi khám hầu hết những bác sĩ giải phẩu ở NewYork. Một số lên tiếng báo động về mụt nhọt này và tính chuyện tẩy bỏ nóđi để không gây hại vĩnh viễn cho óc. Phyllis nói, Cuối cùng chúng tôi tìmđược một bác sĩ giải phẫu nói những điều chúng tôi muốn nghe. Ông nóirằng cuộc giải phẫu sẽ giải quyết mọi chuyện, và ông sẽ dàn xếp cho Harveynhập viện và ra viện trong vòng hai ngày. Chúng tôi quyết định theo kếhoạch giải phẫu với ông ta. Cuộc giải phẫu diễn ra vào tháng mười một năm 1992. Lúc mổ thì cáimụt nhọc lòi ra có kích thước bằng một quả trứng nhỏ, nằm giữa dây thầnkinh mắt (optic nerve) và dây thần kinh xúc cảm (hypothalamus). Người bácsĩ giải phẫu không thể cắt bỏ mụt nhọc vì vị trí của nó, chỉ còn cách là hútdung dịch của nó để làm cho nó giảm áp suất mà nó đang gây ra và lấy mộtmẫu tế bào của mụt nhọt này đem phân tích thì mới biết nó là một tế bào củasọ (craniopharyngioma). Rồi bác sĩ này gửi Harvey đi điều trị bằng quangtuyến trong vòng ba chục lần để làm cho một nhọụt teo đi, chuyện này chấmdứt vào khoảng lễ Giáng Sinh. Trước sự thất vọng của mọi người, tình trạng của bệnh nhân ngàycàng tệ hại trong khi chuyện điều trị tiếp tục. Thị lực của ông yếu đến độ gầnmù, làm cho ông không thể đọc được gì hay nhìn được gì trên màn ảnhtruyền hình. Để ngăn ngừa cho mắt khỏi bị sưng, bác sĩ cho uống thuốcDecadron, là một loại steroid mạnh; nó làm cho Harvey lên 40 cân (pounds)và thay đổi tính khí của ông. Bà Phyllis nói, “Ông trở nên giận dữ, hiếuchiến, và khó chịu và ngủ hoài Harvey chỉ nói, Tôi không nhớ gì về nócả. Ông ấy bắt đầu mất trí nhớ và tâm trí. Ông có thể lạc trong chung cưông đang sống, ông diễn tả về những biến cố chưa từng xảy ra. Phyllis nhớlại, Tôi không biết người này là ai nữa. Cứ theo lời bác sĩ thì không thểnhững chuyện này có thể xảy ra, nhưng họ cũng không có lời nào giải thíchvề bệnh tình ngày càng trở nên tệ hại. Phyllis nói, Không ai muốn nhìnnhận trách nhiệm cả. Bác sĩ giải phẫu (surgeon) nói, Tôi giống như ngườithợ mộc ở đây; công việc tôi xong rồi , Bác sĩ nội tiết (endocrinologist) nóichúng tôi đi gặp Bác sĩ thần kinh (neuroiogist) và Bác sĩ thần kinh lại bảochúng tôi đi gặp Bác sĩ nội tiết. Tôi thật cảm thấy sợ quá. Vào khoảng thời gian này, ...