Danh mục

ĐỀ TÀI ảnh hưởng của việc nuôi ghép cá rô phi đối với sự phát sinh bệnh tôm trong ao nuôi

Số trang: 81      Loại file: pdf      Dung lượng: 853.79 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 37,000 VND Tải xuống file đầy đủ (81 trang) 0
Xem trước 9 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng thuỷ sản có giá trị thương phẩm cao vàcũng là đối tượng nuôi quan trọng của một số nước đang phát triển ở Châu Á nhưTrung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Việt Nam... và Nam Mỹ (Ecuador).Nghề nuôi tôm không chỉ góp phần lớn làm tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản chocác nước nêu trên mà còn có tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xãhội, cải thiện đời sống cho người nuôi thủy sản....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐỀ TÀI " ảnh hưởng của việc nuôi ghép cá rô phi đối với sự phát sinh bệnh tôm trong ao nuôi " GIỚI THIỆUTôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng thuỷ sản có giá trị thương phẩm cao vàcũng là đối tượng nuôi quan trọng của một số nước đang phát triển ở Châu Á nhưTrung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Việt Nam... và Nam Mỹ (Ecuador).Nghề nuôi tôm không chỉ góp phần lớn làm tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản chocác nước nêu trên mà còn có tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xãhội, cải thiện đời sống cho ngườ i nuôi thủy sản.Hiện nay, nghề nuôi tôm nước lợ ở nhiều nước trên thế giớ i đã và đang chịu ảnhhưởng nghiêm trọng do môi trường nuôi ô nhiễm và dịch bệnh phát sinh, đặc biệt làmô hình nuôi tôm sú thâm canh. Hậu quả là có nhiều vùng nuôi tôm b ị thất bại liêntục đã bị bỏ hoang, gây nên những tác động nghiêm trọng về k inh tế xã hội. Để hạnchế sự xâm nhập của mầm bệnh vào ao nuôi, đặc biệt là mầm bệnh virus đốm trắng(WSSV) và virus đầu vàng (YHV) các nhà khoa học đã nghiên cứu đề xuất môhình nuôi tôm ít thay nước, mô hình này đang được áp dụng phổ biến hiện nay. Tuynhiên, do ít thay nước nên chất lượng nước giảm rất nhanh, vật chất dinh dưỡngtích lũy về cuối vụ nuôi dẫn đến hiện tượng tảo nở hoa của các loài tảo Lam, tảoGiáp. Khi tảo phát triển quá mức (độ trong 60µg/L)thường dẫn đến sự biến động của một số yếu tố chất lượng nước (pH, O2, CO2,NH3...). Hơn nữa, tảo thường bị tàn sau khi phát triển quá mức cũng gây nên một sốtác động xấu đến tôm như làm giảm hàm lượng oxy, tạo nên khí độc... Ngoài ra,thành phần loài tảo cũng có ảnh hưởng đến tôm, tảo Khuê thường phát triển vàođầu vụ nuôi chúng là thức ăn tốt cho tôm ở giai đoạn nhỏ, trong khi tảo Lam và tảoGiáp thường phát triển mạnh ở cuối vụ nuôi, chúng tiết độc tố gây ảnh hưởng đếnsức khỏe và khả năng kháng bệnh của tôm.Việc khống chế sự phát triển của tảo trong mô hình nuôi tôm ít thay nước rất khókhăn và cũng có vai trò quyết định đến sự thành công của mô hình. Để khống chếsự phát triển của tảo, hiện nay người nuôi sử dụng mộ t số b iện pháp như: dùng chấtức chế quá trình trao đổi chất (CuSO4, Simazine...), chất oxy hóa mạnh (Chlorine,BKC, KMnO4...), chất nhuộm màu... Tuy nhiên, việc dùng hóa chất để diệt tảo cóthể tạo nên nguy cơ ô nhiễm môi trường (kim loạ i nặng – Cu, Mn...) và các hóachất độc tồn lưu trong tôm (BKC, Simazine...) có thể ảnh hưởng đến sức khỏe củangườ i tiêu dùng. Biện pháp được xem là có hiệu quả làm giảm chất thải và duy trìmàu nước đó là biện pháp sinh học (nuôi kết hợp tôm vớ i cá rô phi). Biện pháp nàyđược áp dụng trong vài năm gần đây ở các nước Philippines, Thái Lan, Ecuador vớ icác hình thức kết hợp khác nhau như: Thả trực tiếp cá rô phi vào ao tôm vớ i mật độkhoảng 0,1 con/m2; Nuôi cá rô phi trong lồng đặt giữa ao tôm vớ i mật độ thả 10 1con/m2 lồng; Nuôi cá rô phi trong ao lắng tuần hoàn nước vớ i ao tôm (Fitzsimmon,2001).Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nghề nuôi tôm sú thâm canh phát triểnmạnh ở một số đ ịa phương như : Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre, Tiền Giang, KiênGiang… Mô hình nuôi được áp dụng phổ b iến là mô hình nuôi ít thay nước, hìnhthức nuôi tôm kết hợp vớ i cá rô phi cũng bắt đầu được áp dụng. Cũng tương tự nhưnghề nuôi tôm thâm canh trên thế giớ i, việc làm giảm vậ t chất dinh dưỡng vàkhống chế sự phát triển của tảo cũng là mố i quan tâm hàng đầu đố i vớ i ngườ i nuôitôm ở V iệt Nam nói chung và ở ĐBSCL nói riêng. Sự phát triển quá mức của tảodường như có liên quan đến sự suy giảm chất lượng nước và quá trình phát sinhdịch bệnh virus trên tôm, các bệnh do virus đốm trắng, đầu vàng thường xuất hiệntrong giai đoạn sau 1-2 tháng nuôi khi nguồn vật chất dinh dưỡng trong ao tăngcao, tảo bắt đầu phát triển mạnh. Chính vì thế, nghiên cứu này tập trung nghiên cứunghiên cứu một số nộ i dung: (i) Khảo sát ảnh hưởng của việc nuôi ghép cá rô phiđối vớ i chất lượng nước và chất thải trong ao nuôi; (ii) Khảo sát ảnh hưởng củaviệc nuôi ghép cá rô phi đố i vớ i sự phát sinh bệnh tôm trong ao nuôi; (iii) Đánh giáhiệu quả của các phương pháp nuôi ghép tôm - cá rô phi khác nhau ở hai mức độnuôi công nghiệp (khoảng 20-35 PL/m2); (iv) Xây dựng mô hình nuôi ghép hiệuquả nhất về mặt kỹ thuật-kinh tế. Nghiên cứu này cũng nhằm làm cơ sở cho việcnghiên cứu tìm biện pháp khống chế sự phát triển của phytoplankton, cải thiện chấtlượng nước, góp phần làm giảm rủi ro do dịch bệnh cho nghề nuôi tôm thâm canh.2 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU1 SƠ LƯỢC CÁC HÌNH THỨC NUÔI TÔM.Ở Châu Á nghề nuôi tôm He (Penaeidae) đã có từ lâu vớ i mô hình nuôi truyềnthống, năng suất thấp và chỉ tiêu thụ nộ i đ ịa. Việc xuất khẩu sản phẩm tôm nuôi chỉhình thành trong những năm giữa thập kỷ 70. Vớ i những tiến bộ về kỹ thuật nuôivà công nghệ chế b iến thức ăn thủy sản thì côn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: