Danh mục

Đề tài: Cá Basa Việt Nam – Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Xuất Khẩu

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 290.24 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu cụ thể: Nâng cao chất lượng, số lượng; Nâng cao khả năng cạnh tranh; Đưa ra chiến lược xuất khẩu cụ thể Thu về lợi nhuận
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài: Cá Basa Việt Nam – Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Xuất Khẩu Đề tài: Cá Basa Việt Nam – Giải Pháp Nâng Cao Hoạt Động Xuất Khẩu Cơ sở lý luận: I. Mục tiêu nghiên cứu + Lý do chọn đề tài: Cung cao, cầu cao nhưng nghịch lý cung lại không đáp ứng cầu. + Cần thiết cho ai: Hộ nông dân; Các doanh nghiệp + Tính cấp thiết: Hoạt động nuôi trồng và xuất khẩu cỏn rất nhiều bất cập( chưa hiệu quả). + Mục tiêu cụ thể: Nâng cao chất lượng, số lượng; Nâng cao khả năng cạnh tranh; Đưa ra chiến lược xuất khẩu cụ thể Thu về lợi nhuận II. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: + Đối tượng: o Hộ nuôi trồng o Doanh nghiệp chế biến o Doanh nghiệp xuất khẩu o Đối tượng cạnh tranh nước ngoài + Phạm vi nghiên cứu: o Các tỉnh miền Tây o Các doanh nghiệp tại TP. HCM o Thị trường nước ngoài: EU, Mỹ, Mỹ Latinh, Nhật Bản, Nga III. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp khảo sát, điều tra + Thống kê +Phân tích duy vật biện chứng + Phương pháp so sánh tương đối, tuyệt đối + Phương pháp chuyên gia IV Kết quả đạt được + Đưa ra số lượng + Nhận định, phân tích kết quả Mặt hàng cá tra – basa: Vào năm 1997, khối lượng xuất khẩu cá tra – basa của Việt Nam chưa đáng kể, chỉ vài trăm tấn với giá trị hơn 1,6 triệu USD. Năm 1998, xuất khẩu đã tăng vọt lên 2.200 nghìn tấn, đạt giá trị hơn 9 triệu USD. Tuy nhiên xuất khẩu mặt hàng này có xu hướng giảm trong 3 năm liền (1999 – 2001). Đến năm 2002, xuất khẩu lại tăng mạnh đạt gần 28.000 tấn, trị giá gần 87 triệu USD, gấp 17,22 lần so với năm 2001. Việc xuất khẩu mặt hàng này tập trung chủ yếu vào thị trường Mỹ (14.797 tấn với giá trị 35,48 triệu USD) chiếm tới 61,64% về khối lượng và 63,04% về giá trị năm 2002, nên Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn do biến động của thị trường và các động thái bảo hộ thương mại của Mỹ (như kiện chống bán phá giá, hàng rào ATVSTS...). Sau vụ kiện bán phá giá cá tra, basa của các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa đã tích cực mở rộng giới thiệu sản phẩm này ở nhiều thị trường khác nhất là các nước EU và đã gặt hái được thành công rực rỡ. Do đó sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ đã giảm. Sau năm 2003, xuất khẩu mặt hàng này đã bước sang một trang mới, giá trị xuất khẩu năm 2004 đạt 231,5 triệu USD, gấp 2,86 lần năm 2003. Cá tra, basa của Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 40 thị trường, trong đó các thị trường châu Âu có sự tăng trưởng vượt bậc. Năm 2005, giá trị xuất khẩu cá tra, basa vào Tây Ban Nha là 34,4 triệu USD, gấp 13,9 lần so với năm 2003, trở thành nước nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam đứng thứ hai sau Mỹ (35,5 triệu USD), tiếp theo là Đức với 29,1 triệu USD. Các thị trường châu Á, châu Đại dương, châu Mỹ cũng được mở rộng và tăng trưởng liên tục. Tỷ trọng mặt hàng này trong giá trị xuất khẩu thuỷ sản ngày càng tăng từ 3,69% năm 2003 lên 12,06% năm 2005 và năm 2006 có thể đạt hơn 660 triệu USD chiếm tới trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản với hơn 65 thị trường tiêu thụ. Những số liệu thống kê về xuất khẩu cá tra, basa cho thấy sự cố gắng không mệt mỏi của các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này sau những va vấp trên thị trường Mỹ. Mặt hàng cá tra, basa của Việt Nam phát triển mạnh hơn nhiều so với trước khi có vụ kiện tại Mỹ. Chỉ hai tháng sau khi vụ kiện kết thúc các doanh nghiệp Việt Nam đã phục hồi hoàn toàn sản lượng sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đã tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất do có nhiều nỗ lực đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường. Người tiêu dùng toàn thế giới đã biết đến thương hiệu cá tra, basa của Việt Nam, trong đó châu Âu đã trở thành thị trường tiêu thụ chính của sản phẩm này. Sự tăng trưởng của sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cá tra, basa có thể xem là một “hiện tượng” của sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam năm 2006. Biểu đồ 7: Xuất khẩu cá ba sa và cá tra của Việt Nam 1997-2005 Bảng 16: Xuất khẩu cá ba sa- cá tra của Việt Nam (1997-2005) 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Khối lượng (Tấn) 425 2.263 1.692 1.129 1.737 2.7987 32.876 83.843 141.010 Giá trị (1000 USD) 1.657 9.268 6.656 3.803 5.051 86.975 81.071 231.536 328.886 (Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản) Biểu đồ 8: Thị phần xuất khẩu cá tra và cá ba sa Bảng 17: Các thị trường xuất khẩu cá tra, ba sa quan trọng của Việt Nam (Đơn vị: 1000USD) Thị trường 2001 2002 2003 2004 2005 Mỹ 3.912 54.828 23.956 43.871 35.477 Hồng Kông 350 9.539 14.247 41.022 28.661 Đức 161 4.171 6.540 22.610 29.084 Singapo 360 4.667 5.450 13.822 16.658 Úc 37 3.237 6.516 20.798 25.936 Bỉ - 2.416 4.897 12.824 24.644 Tây Ban Nha - 355 2.476 21.962 34.412 Canada 58 1.383 2.448 8.659 12.684 Mê-xi-cô - 144 1.479 9.582 16.677 Thái Lan - 226 1.899 4.034 11.683 Malaixia 32 739 1.271 3.787 9.273 Nhật Bản ...

Tài liệu được xem nhiều: