Danh mục

Đề tài: Đánh giá tình hình giao đất giao rừng nhằm phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp tại xã Nghĩa Long, Huyện Nghĩa Đàn, Tỉnh Nghệ An

Số trang: 53      Loại file: doc      Dung lượng: 357.00 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 6 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, là điều kiện cần để sinh tồn, để sản xuất, nó không thể thiếu được. Nó là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống và trở thành một tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia. Là nguồn lực để phát triển đất nước, là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp để đáp ứng điều kiện cơ bản tối thiểu của đời sống xã hội loài người đảm bảo cho quá trình sản xuất, xã hội tồn tại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài: Đánh giá tình hình giao đất giao rừng nhằm phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp tại xã Nghĩa Long, Huyện Nghĩa Đàn, Tỉnh Nghệ An ĐẶT VẤN ĐỀ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, là điều kiện cần để sinh tồn, để sản xuất, nó không thể thiếu được. Nó là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống và trở thành một tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia. Là nguồn lực để phát triển đất nước, là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp để đáp ứng điều kiện cơ bản tối thiểu của đời sống xã hội loài người đảm bảo cho quá trình sản xuất, xã hội tồn tại và phát triển. Ngoài ra nó còn là giá đỡ của thực vật, nơi sinh tồn của động vật, vi sinh vật. Luật đất đai sửa đổi năm 1993 được Quốc hội thông qua ngày 14/07/1993 có hiệu lực ngày 15/10/1995 đã thừa nhận 5 quyền cơ bản của người sử dụng đất, quan hệ sản xuất nông lâm nghiệp được xác lập trên cơ sở giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài đã trở thành động lực thúc đẩy quá trình nông, lâm nghiệp phát triển. Hiệu quả sử dụng đất được nâng cao so với giai đoạn trước. Ngoài ra Chính phủ còn cho ra đời một số Nghị định như: Nghị định 64/CP ngày 27/09/1993 quy định: “Giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp” . Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994 quy định: “ Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp ”. Nghị định 163/1999/NĐ – CP ban hành ngày 16/11/1999 bổ sung và thay thế một số điều trọng nghị định 02/CP. Gần đây Quốc hội nước ta đã đưa ra luật đất đai số 13/2003/QH. Luật này quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Nhà Nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. 1 Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 và các văn bản có liên quan đến giao đất giao rừng và hưởng dụng rừng như Nghị định 135/2005/NĐ – CP về giao khoán đất, Quyết định 186/2006/QĐ – TTg về quy chế quản lý rừng, Quyết định 40/2005/QĐ – BNN về quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Những chính sách này đã từng bước đáp ứng được nhu cầu về quản lý đất đai, đồng thời đã coi trọng, nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng đất, gắn người lao động với đất đai khi họ thực sự là chủ của từng thửa đất, từ đó việc sử dụng đất có hiệu quả, năng suất cây trồng tăng lên, việc khai thác tài nguyên rừng và đất rừng đã có sự quản lý chặt chẽ, đất đai đã được khai thác một cách có hiệu quả, triệt để, tương ứng với tiềm năng. Thực tiễn những năm qua cho thấy, chính sách giao đ ất giao r ừng đã th ực sự đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của người dân, tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống, nhiều hộ nông dân có thu nhập khá từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất được giao. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng triển khai thực hiện những chính sách giao đất giao rừng ở mỗi địa phương lại có những thuận lợi và khó khăn riêng, chính vì vậy mà tác động của những chính sách này tới sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi đ ịa phương cũng có sự khác nhau và mang đặc thù của mỗi vùng, do vậy việc nghiên cứu, đánh giá tình hình giao đất, giao rừng trong giai đoạn hiện nay và đưa ra một số phương hướng cho giai đoạn tiếp theo là một việc làm cần thiết. Xuất phát từ tình hình thực tế dựa trên cơ sở nghiên cứu nhằm hiểu được hiệu quả công tác quản lý và sử dụng đất sau khi thực hiện chích sách giao đất, giao rừng để đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý nhà nước về đất đai và được sự cho phép của Nhà trường tôi đã tiến hành nghiên cứu chuyên đề: “ Đánh giá tình hình giao đất giao rừng nhằm phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp tại xã Nghĩa Long, Huyện Nghĩa Đàn, Tỉnh Nghệ An”. 2 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. CHÍNH SÁCH ĐẤT ĐAI CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.1.1. Chính sách đất đai ở Thái Lan Tại Thái Lan bước sang chế độ quân chủ, luật ruộng đất được ban hành năm 1954 đã thúc đẩy mạnh mẽ chích sách kinh tế xã hội của đất nước. Luật ruộng đất đã công nhận toàn bô đất đai bao gồm đất khu dân cư đều có thể được mua, tẩu lại từ cá thể. Các chủ đất có quyền tự do chuyển nhượng, cầm cố một cách hợp pháp, từ đó Chính phủ có được toàn bộ đất trồng ( có khả năng trồng trọt được) và nhân dân đã trở thành người làm công trên đất ấy. Tuy nhiên, trong giai đoạn này luật ruộng đất quy định chế độ định canh ngắn, chế độ luân canh vừa. Bên cạnh đó việc thu địa tô cao, dân số tăng nhanh, tình tr ạng thi ếu đất do việc phân hóa giàu nghèo, đã dẫn đến việc đầu tư trong nông nghiệp thấp. Từ đó, năng suất cây trồng trên đất phát canh thấp hơn trên đ ất tự canh. Bước sang năm 1974 Chính Phủ Thái Lan ban hành chính sách cho thuê đ ất lúa, quy định rõ việc bảo vệ người làm thuê, thành lập các tổ chức người địa phương làm việc theo sự điều hành của trại thuê mướn, Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình phát triển. Luật cải cách ruộng đất năm 1975 quy định các điều khoản với mục tiêu biến tá điền thành chủ sở hữu ruộng đất, trực tiếp sản xuất trên đất Nhà Nước quy định hạn mức đối với đất trồng trọt là 3,2 ha (50 rai), đối với đất chăn nuôi 6,4 ha (100 rai), đối với những trường hợp quá hạn mức Nhà nước tiền hành trưng thu để chuyển giao cho tá điền, với mức đền bù hợp lý. Đối với đất rừng, để đối phó với vấn đề suy thoái đất, xâm lấn rừng. Bắt đầu từ năm 1979 Thái Lan thực hiện chương trình giấy chứng nhận quy ền hoa lợi, trong rừng dự trữ Quốc gia, theo chương này mỗi mảnh đất được chia làm hai miền. Miền từ dưới nguồn nước là miền đất có thể dùng để canh tác nông nghiệp, miền ở phía trên nguồn nước thì hạn chế và giữ rừng, còn miền 3 đất phù hợp cho canh tác nhưng mà trước đây những người dâ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: