![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Điều trị bệnh cường giáp trạng và Basedow
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 173.91 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bệnh cường giáp trạng nói chung và bệnh Basedow nói riêng là loại bệnh khá phổ biến trong các bệnh lý tuyến giáp. Biểu hiện lâm sàng của bệnh Basedow (trong những trường hợp điển hình) thường là có bướu cổ to ra; mạch nhanh; hay có những cơn nóng bừng ở mặt, lòng bàn tay thường hâm hấp mồ hôi; mắt lồi; rối loạn tiêu hoá (đi lỏng...); tính tình thay đổi, hay cáu gắt, dễ nổi nóng; run tay... ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điều trị bệnh cường giáp trạng và BasedowĐiều trị bệnh cường giáp trạng và BasedowBệnh cường giáp trạng nói chung và bệnh Basedow nói riêng là loại bệnhkhá phổ biến trong các bệnh lý tuyến giáp.Biểu hiện lâm sàng của bệnh Basedow (trong những trường hợp điển hình)thường là có bướu cổ to ra; mạch nhanh; hay có những cơn nóng bừng ởmặt, lòng bàn tay thường hâm hấp mồ hôi; mắt lồi; rối loạn tiêu hoá (đilỏng...); tính tình thay đổi, hay cáu gắt, dễ nổi nóng; run tay...Về điều trị:Hiện có 3 phương pháp chính để điều trị bệnh cường giáp và Basedow, đó làdùng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trị nội khoa), phẫu thuật và iốtphóng xạ. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng.Trên thế giới, lần đầu tiên vào năm 1942 tại bệnh viện Massachusett - HoaKỳ, iốt phóng xạ đã được sử dụng để điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnhBasedow. Cho đến nay trải qua hơn 60 năm sử dụng I - 131, hàng triệu bệnhnhân mắc bệnh này trên thế giới đã được điều trị thành công bằng iốt phóngxạ.Ở Việt Nam, năm 1978 lần đầu tiên tại khoa Y học hạt nhân và điều trị Ungbướu - Bệnh viện Bạch Mai, I-131 đã được sử dụng để điều trị bệnhBasedow và cường giáp trạng. Cho đến nay hầu hết các khoa Y học hạt nhântrong cả nước đã tiến hành trị bệnh này bằng I-131, và đã có tới hàng vạnbệnh nhân đã được áp dụng phương pháp điều trị này. Do tính chất đơn giản,hiệu quả, kinh tế và thẩm mỹ... nên hiện nay I-131 đang có xu hướng ngàycàng được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnhBasedow.Điều trị bằng iốt phóng xạ thường được chỉ định rất rộng rãi: Tất cả các bệnhnhân (thuộc mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em) được chẩn đoán xác định là có cườnggiáp trạng hay Basedow chưa qua bất kỳ phương pháp điều trị nào (như điềutrị nội khoa, phẫu thuật); hoặc tái phát sau điều trị nội khoa, tái phát sauphẫu thuật; biến chứng sau điều trị nội khoa (dị ứng, nhiễm độc gan, giảmbạch cầu, suy tuỷ xương sau điều trị bằng thuốc kháng giáp), hoặc bệnhnhân không còn chỉ định phẫu thuật...Quy trình điều trị bằng I-131 khá đơn giản. Bệnh nhân sau khi được chẩnđoán xác định và có chỉ định điều trị sẽ được uống I-131 dưới dạng dungdịch lỏng hoặc dưới dạng viên con nhộng. Sau đó được trở về sinh hoạt tạigia đình và có thể đi lại trên các phương tiên giao thông công cộng như xebuýt, taxi, tàu hoả..., nếu những bệnh nhân này không có các biến chứngnặng, tình trạng bệnh không ở mức quá nặng.I-131 thường phát huy hiệu quả điều trị từ 6-8 tuần sau khi uống thuốc. Theonhiều thống kê cho thấy có tới hơn 85 % bệnh nhân hết các triệu chứngcường giáp sau 3-5 tháng nhận liều điều trị bằng I-131. Hơn 95 % bệnhnhân có bướu cổ trở về bình thường hoặc nhỏ lại, và trên 80 % bệnh nhânlên cân. Các triệu chứng run tay, rối loạn tiêu hoá, ... được cải thiện rõ rệt ở100 % các bệnh nhân sau uống I-131.Một điểm đặc biệt của phương pháp điều trị này là I-131 có thể làm nhỏbướu giáp và làm mất các triệu chứng cường giáp để đưa bệnh nhân về tìnhtrạng bình giáp (trở về bình thường). Người ta gọi đây là phương pháp phẫuthuật không cần dao. Bướu cổ nhỏ lại và trở về bình thường sau uống I-131là một ưu điểm đặc biệt của I-131, nó tạo nên tính thẩm mỹ cao, không để lạibất kỳ một vết sẹo nào trên cổ người bệnh.Tuy nhiên bất kỳ một phương pháp điều trị nào cũng có những ưu nhượcđiểm của nó. Điều trị cường giáp trạng và bệnh Basedow bằng iốt phóng xạcũng có những biến chứng của nó. Tất cả những biến chứng như viêm tuyếngiáp do bức xạ, cơn cường giáp kịch phát, suy giáp... đều có thể tránh đượcnếu như người bệnh được chuẩn bị tốt trước khi điều trị hoặc được tính toánliều lượng I-131 chính xác. Hiện nay ở nước ta chưa gặp một trường hợpnào bị cường giáp kịch phát hay viêm tuyến giáp cấp sau điều trị I-131.Song một vấn đề luôn làm nhiều người lo lắng, kể cả bệnh nhân, người nhàbệnh nhân và thậm chí cả các cán bộ y tế là sau điều trị bệnh cường giáptrạng và bệnh Bascdow bằng I-131 có gây ra ung thư (như ung thư tuyếngiáp, ung thư máu...) và các đột biến di truyền hay không?. Để giải đáp câuhỏi này, cho đến nay đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu của nhiềunhà nghiên cứu ở hầu hết các quốc gia đã từng sử dụng I-131 để điều trịbệnh cường giáp trạng nói riêng và một số bệnh tuyến giáp khác nói chung.Nhiều công trình nghiên cứu đã tiến hành so sánh tỷ lệ ung thư cũng như khảnăng xuất hiện các đột biến di truyền ở cả 3 nhóm bệnh nhân Basedow vàcường giáp trạng sau điều trị bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trịnội khoa), phẫu thuật và bằng I-131. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy:không có bất kỳ bằng chứng nào để khẳng định với liều điều trị I-131 chocác bệnh nhân cường giáp lại có thể gây ra bệnh bạch cầu. Khi so sánh về tỉlệ ung thư máu giữa điều trị bằng I-131 và điều trị phẫu thuật cho các bệnhnhân cường giáp trạng, nhiều tác giả nhận thấy không có sự khác biệt về vềtỉ lệ ung thư máu giữa hai phương pháp điều trị nói trên. Nói cách khác,những bệnh nhân Ba ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điều trị bệnh cường giáp trạng và BasedowĐiều trị bệnh cường giáp trạng và BasedowBệnh cường giáp trạng nói chung và bệnh Basedow nói riêng là loại bệnhkhá phổ biến trong các bệnh lý tuyến giáp.Biểu hiện lâm sàng của bệnh Basedow (trong những trường hợp điển hình)thường là có bướu cổ to ra; mạch nhanh; hay có những cơn nóng bừng ởmặt, lòng bàn tay thường hâm hấp mồ hôi; mắt lồi; rối loạn tiêu hoá (đilỏng...); tính tình thay đổi, hay cáu gắt, dễ nổi nóng; run tay...Về điều trị:Hiện có 3 phương pháp chính để điều trị bệnh cường giáp và Basedow, đó làdùng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trị nội khoa), phẫu thuật và iốtphóng xạ. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng.Trên thế giới, lần đầu tiên vào năm 1942 tại bệnh viện Massachusett - HoaKỳ, iốt phóng xạ đã được sử dụng để điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnhBasedow. Cho đến nay trải qua hơn 60 năm sử dụng I - 131, hàng triệu bệnhnhân mắc bệnh này trên thế giới đã được điều trị thành công bằng iốt phóngxạ.Ở Việt Nam, năm 1978 lần đầu tiên tại khoa Y học hạt nhân và điều trị Ungbướu - Bệnh viện Bạch Mai, I-131 đã được sử dụng để điều trị bệnhBasedow và cường giáp trạng. Cho đến nay hầu hết các khoa Y học hạt nhântrong cả nước đã tiến hành trị bệnh này bằng I-131, và đã có tới hàng vạnbệnh nhân đã được áp dụng phương pháp điều trị này. Do tính chất đơn giản,hiệu quả, kinh tế và thẩm mỹ... nên hiện nay I-131 đang có xu hướng ngàycàng được sử dụng rộng rãi trong điều trị bệnh cường giáp trạng và bệnhBasedow.Điều trị bằng iốt phóng xạ thường được chỉ định rất rộng rãi: Tất cả các bệnhnhân (thuộc mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em) được chẩn đoán xác định là có cườnggiáp trạng hay Basedow chưa qua bất kỳ phương pháp điều trị nào (như điềutrị nội khoa, phẫu thuật); hoặc tái phát sau điều trị nội khoa, tái phát sauphẫu thuật; biến chứng sau điều trị nội khoa (dị ứng, nhiễm độc gan, giảmbạch cầu, suy tuỷ xương sau điều trị bằng thuốc kháng giáp), hoặc bệnhnhân không còn chỉ định phẫu thuật...Quy trình điều trị bằng I-131 khá đơn giản. Bệnh nhân sau khi được chẩnđoán xác định và có chỉ định điều trị sẽ được uống I-131 dưới dạng dungdịch lỏng hoặc dưới dạng viên con nhộng. Sau đó được trở về sinh hoạt tạigia đình và có thể đi lại trên các phương tiên giao thông công cộng như xebuýt, taxi, tàu hoả..., nếu những bệnh nhân này không có các biến chứngnặng, tình trạng bệnh không ở mức quá nặng.I-131 thường phát huy hiệu quả điều trị từ 6-8 tuần sau khi uống thuốc. Theonhiều thống kê cho thấy có tới hơn 85 % bệnh nhân hết các triệu chứngcường giáp sau 3-5 tháng nhận liều điều trị bằng I-131. Hơn 95 % bệnhnhân có bướu cổ trở về bình thường hoặc nhỏ lại, và trên 80 % bệnh nhânlên cân. Các triệu chứng run tay, rối loạn tiêu hoá, ... được cải thiện rõ rệt ở100 % các bệnh nhân sau uống I-131.Một điểm đặc biệt của phương pháp điều trị này là I-131 có thể làm nhỏbướu giáp và làm mất các triệu chứng cường giáp để đưa bệnh nhân về tìnhtrạng bình giáp (trở về bình thường). Người ta gọi đây là phương pháp phẫuthuật không cần dao. Bướu cổ nhỏ lại và trở về bình thường sau uống I-131là một ưu điểm đặc biệt của I-131, nó tạo nên tính thẩm mỹ cao, không để lạibất kỳ một vết sẹo nào trên cổ người bệnh.Tuy nhiên bất kỳ một phương pháp điều trị nào cũng có những ưu nhượcđiểm của nó. Điều trị cường giáp trạng và bệnh Basedow bằng iốt phóng xạcũng có những biến chứng của nó. Tất cả những biến chứng như viêm tuyếngiáp do bức xạ, cơn cường giáp kịch phát, suy giáp... đều có thể tránh đượcnếu như người bệnh được chuẩn bị tốt trước khi điều trị hoặc được tính toánliều lượng I-131 chính xác. Hiện nay ở nước ta chưa gặp một trường hợpnào bị cường giáp kịch phát hay viêm tuyến giáp cấp sau điều trị I-131.Song một vấn đề luôn làm nhiều người lo lắng, kể cả bệnh nhân, người nhàbệnh nhân và thậm chí cả các cán bộ y tế là sau điều trị bệnh cường giáptrạng và bệnh Bascdow bằng I-131 có gây ra ung thư (như ung thư tuyếngiáp, ung thư máu...) và các đột biến di truyền hay không?. Để giải đáp câuhỏi này, cho đến nay đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu của nhiềunhà nghiên cứu ở hầu hết các quốc gia đã từng sử dụng I-131 để điều trịbệnh cường giáp trạng nói riêng và một số bệnh tuyến giáp khác nói chung.Nhiều công trình nghiên cứu đã tiến hành so sánh tỷ lệ ung thư cũng như khảnăng xuất hiện các đột biến di truyền ở cả 3 nhóm bệnh nhân Basedow vàcường giáp trạng sau điều trị bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp (điều trịnội khoa), phẫu thuật và bằng I-131. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy:không có bất kỳ bằng chứng nào để khẳng định với liều điều trị I-131 chocác bệnh nhân cường giáp lại có thể gây ra bệnh bạch cầu. Khi so sánh về tỉlệ ung thư máu giữa điều trị bằng I-131 và điều trị phẫu thuật cho các bệnhnhân cường giáp trạng, nhiều tác giả nhận thấy không có sự khác biệt về vềtỉ lệ ung thư máu giữa hai phương pháp điều trị nói trên. Nói cách khác,những bệnh nhân Ba ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
cường giáp trạng là gì nguyên nhân gây cường giáp trạng y học cơ sở kiến thức y học y học thường thức lý thuyết y họcTài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 237 0 0 -
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 200 0 0 -
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 187 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 177 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 127 0 0 -
4 trang 118 0 0
-
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 114 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 114 0 0 -
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 111 0 0 -
9 trang 80 0 0