Danh mục

Điều trị tăng huyết áp

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 165.80 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Sự liên quan giữa nguy cơ bị các biến chứng tim mạch và huyết áp ở những người đã bị nhồi máu cơ tim rất khác nhau và đã được cho là có sự liên quan theo mô hình hình chữ J trong 2 năm đầu sau nhồi máu cơ tim (ví dụ như có tăng nguy cơ nghịch thường ở những người có huyết áp thấp dưới 110/70mmHg), nhưng khi theo dõi lâu dài hơn lại thấy có sự liên quan dương tính.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điều trị tăng huyết áp Điều trị tăng huyết áp ở bệnh nhânbệnh động mạch vànhSự liên quan giữa nguy cơ bị các biến chứng tim mạch vàhuyết áp ở những người đã bị nhồi máu cơ tim rất khác nhauvà đã được cho là có sự liên quan theo mô hình hình chữ Jtrong 2 năm đầu sau nhồi máu cơ tim (ví dụ như có tăngnguy cơ nghịch thường ở những người có huyết áp thấpdưới 110/70mmHg), nhưng khi theo dõi lâu dài hơn lại thấycó sự liên quan dương tính. Tăng tỷ lệ tử vong khi huyết ápthấp có thể là ví dụ của quan hệ nhân quả ngược, bệnh nhâncó huyết áp thấp bởi vì bị tổn thương cơ tim trầm trọng. Tiềnsử tăng huyết áp không làm tăng tỷ lệ tử vong sau nhồi máucơ tim, nhưng nó dự báo bị tái nhồi máu cơ tim.Xơ vữa động mạch vànhcó ảnh hưởng đến đột Tăng huyết áp dẫn đến các biếnqụy. chứng ở não, tim và thận thông quahai cơ chế chính, cả hai cơ chế này đều liên quan đến việc tăngáp lực ở trong các động mạch. Cơ chế thứ nhất là do ảnh hưởnglên cấu trúc và chức năng của tim và các động mạch. Cơ chế thứhai là do thúc đẩy sự tiến triển của quá trình vữa xơ động mạch.Cơ chế đầu tiên là hậu quả trực tiếp của huyết áp, trong khi cơchế thứ hai đòi hỏi phải có sự tương tác với các yếu tố nguy cơtim mạch khác, quan trọng nhất là tăng cholessterol máu. Do vậy,đột qụy liên quan chặt chẽ với những ảnh hưởng trực tiếp củahuyết áp, trong khi bệnh động mạch vành liên quan đến sự vữaxơ động mạch. Sự liên quan giữa huyết áp với các biến cố chặtchẽ với đột qụy hơn là với bệnh động mạch vành. Ở các quốc giacó nồng độ cholesterol máu thấp thì đột qụy hay gặp hơn là bệnhđộng mạch vành.Phân tích tổng hợp 61 nghiên cứu cho thấy có sự liên quan tuyếntính chặt chẽ giữa cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trươngvới nguy cơ bị các biến chứng động mạch vành ở tất cả cácnhóm tuổi từ 40 - 89. Khi tăng mỗi 20mmHg huyết áp tâm thu (từ115- 180mmHg) thì tăng gấp 2 lần nguy cơ bị các biến chứng.Vàvới huyết áp tâm trương, nguy cơ bị các biến chứng tăng gấp đôikhi tăng mỗi 10mmHg (từ 75-100mmHg). Có sự tương tác giữacác yếu tố nguy cơ khác nhau, do vậy sự liên quan giữa huyết áptâm thu và nguy cơ bệnh động mạch vành rõ rệt hơn ở nhữngngười có tăng cholesterol máu so với những người có cholesterolmáu bình thường. Mặc dù đã được biết rõ ràng rằng huyết áp làmột trong ba yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh động mạch vành(hai yếu tố nguy cơ kia là tăng cholesterol máu và hút thuốc lá),nhưng các biến cố động mạch vành có thể xuất hiện ở nhữngbệnh nhân không có cả ba yếu tố nguy cơ trên. Một phân tíchtổng hợp ba nghiên cứu lớn cho thấy có trên 90% các trườnghợp nhồi máu cơ tim có một trong ba yếu tố nguy cơ nói trên.Khuyến cáo chính thức về điều trị bệnh nhân tăng huyết áp bịbệnh động mạch vành là mục tiêu điều trị nên đạt trị số huyết ápdưới 140/90mmHg, trong khi giảm huyết áp nhiều hơn có lợi hayhại thì còn đang tranh cãi. Giả thuyết về đường cong hình chữ Jđược đưa ra dựa trên các nghiên cứu cho thấy nếu huyết áp tâmtrương thấp hơn một ngưỡng nhất định (khoảng 85mmHg) có sựtăng nghịch thường các biến cố. Người đưa ra giả thuyết giảithích rằng bởi vì tưới máu động mạch vành được thực hiện chủyếu trong thời kỳ tâm trương, giảm huyết áp tâm trương quánhiều ở người bị bệnh động mạch vành có thể dẫn đến thiếu máucơ tim. Một số nghiên cứu cho các kết quả ủng hộ giả thuyết này,bởi vì sự liên quan hình chữ J chỉ thấy ở bệnh nhân nhồi máu cơtim cấp nhưng không thấy ở bệnh nhân đột qụy, nơi mà câuchâm ngôn “Huyết áp càng thấp càng tốt” vẫn còn đứng vững.Phân tích gần đây, nghiên cứu INVEST so sánh hai chế độ thuốcở các bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, khẳng định rằng có sựtăng nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân và nhồi máu cơ tim ởcác bệnh nhân có huyết áp tâm trương thấp dưới 75mmHg. Mộtlần nữa không thấy có sự liên quan như vậy đối với đột qụy. Cácsố liệu từ nghiên cứu Framingham cũng ủng hộ giả thuyết đườngcong hình chữ J này, nhưng không chỉ với các bệnh nhân có tiềnsử nhồi máu cơ tim mà còn ở bệnh nhân có huyết áp tâm thu caonhưng huyết áp tâm trương thấp. Điều đó cũng được khẳng địnhqua nghiên cứu CAMELOT, khi phân chia ngẫu nhiên các bệnhnhân có huyết áp bình thường bị bệnh động mạch vành sử dụngamlodipine, enalapril hay giả dược. Kết quả cho thấy cả hai thuốcđều làm giảm huyết áp, nhưng amlidipine có tỷ lệ tái phát cácbiến cố so thấp hơn với nhóm dùng giả dược hay enalapril. Huyếtáp của bệnh nhân khi bắt đầu nghiên cứu trung bình129/78mmHg và giảm được 5mmHg ở cả hai nhóm điều trị thuốchạ áp. Tóm lại, tại thời điểm này nên tránh giảm quá nhiều huyếtáp tâm trương ở các bệnh nhân có bệnh động mạch vành, đặcbiệt là các bệnh nhân có huyết áp tâm thu cao. Trong thực hànhlâm sàng, đây là một công việc không dễ, bởi vì rất khó sử dụngthuốc làm giảm huyết áp tâm thu m ...

Tài liệu được xem nhiều: