Đinh Công Tráng
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 0.00 B
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đinh Công Tráng (1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (tên cứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá) trong phong trào Cần vương chống Pháp ở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. 7 Liên kết ngoài Thân thế & sự nghiệp Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842) tại làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (nay là xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Khi quân Pháp tiến hành công cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ, đang là một chánh tổng, ông đến gia nhập đội quân của Hoàng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đinh Công Tráng Đinh Công Tráng Đinh Công Tráng (1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (têncứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá) trong phong trào Cần vương chống Phápở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. 7 Liên kết ngoài Thân thế & sự nghiệp Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842) tại làng Trinh Xá, huyện ThanhLiêm (nay là xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Khi quân Pháp tiến hành công cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ, đang là một chánhtổng, ông đến gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm, rồi tham gia trận Cầu Giấy ngày19 tháng 5 năm 1883. Khởi nghĩa Ba Đình Bài chính: Khởi nghĩa Ba Đình Tháng 7 năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, tướng Tôn Thất Thuyếtđưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ban dụ Cần Vương kêu gọi toàndân kháng chiến. Hưởng ứng, tháng 2 năm 1886[1], Đinh Công Tráng cùng với cácđồng đội của mình đã chọn vùng đất thuộc ba làng là: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, MỹKhê (vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia,nên gọi là căn cứ Ba Đình; nay thuộc xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa)làm căn cứ kháng chiến lâu dài. Từ đây, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soátcác tuyến giao thông quang trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tảicủa đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rấtquyết tâm đánh dẹp. Theo giúp Đinh Công Tráng có nhiều cộng sự, trong đó có Phạm Bành là ngườitài giỏi và đắc lực, đã cùng ông chỉ huy lực lượng nghĩa quân đánh bại hai đợt tấncông quy mô lớn của Pháp ngày 18 tháng 12 năm 1886 và ngày 6 tháng 1 năm1887[1]. Trận ngày 18 tháng 12 năm 1886 Quân Pháp gồm 500 lính, có đại bác 80 ly yểm hộ, tấn công căn cứ Ba Đình từhai hướng. Hướng tây nam do trung tá Metzanhzơ (Metzinzer), hướng đông bắc dotrung tá Đôt (Dodds) chỉ huy, nhưng đều bị nghĩa quân đánh lui. Sau trận này, thấykhông thể thắng nhanh được, nên quân Pháp chuyển sang phương án bao vây. Trận ngày 6 tháng 1 năm 1887 - 21 tháng 1 năm 1887 Ngày 6 tháng 1 năm 1887, Trung tá Đôt lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưngcũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh. Không thể để căn cứ Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh ThanhHóa và Ninh Bình, làm cản trở công cuộc thôn tính nước Việt, Bộ Tư lệnh quân viễnchinh Pháp quyết định: -Nâng số quân Pháp đánh Ba Đình lên 3.530 lính (1.580 lính Âu và 1.950 línhbản xứ). Ngoài ra, còn 5 nghìn dân binh và giáo dân của linh mục Trần Lục đến tiếptay. -Tăng số pháo sử dụng lên 36 khẩu, trong đó có 4 khẩu 95 ly, 10 khẩu 81 ly, 4khẩu 65 ly,... -Đưa 4 pháo hạm và nhiều thuyền lớn đến yểm trợ và lo việc tiếp vận. -Cử Đại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy[2]. Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud liền choquân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũytre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa. Trước sức mạnh của đối phương, đêm 20 rạng 21 tháng 1 năm 1887, ĐinhCông Tráng cho quân phá vòng vây, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao. Sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Saukhi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng trênbản đồ hành chính [3]. Trận đồn Mã Cao Thủ lĩnh Đinh Công Tráng vừa đến Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng, thì đãbị quân Pháp đuổi theo tấn công. Ngày 2 tháng 2 năm 1887, một trận giao tranh ác liệtđã xảy ra ở đây. Thấy không đủ sức kháng cự, lợi dụng lúc đêm tối, các thủ lĩnh đànhphải cho quân rút theo hướng Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóasáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Một số khác theo Đinh Công Trángrút về Nghệ An[4]. Hy sinh Về Nghệ An, Đinh Công Tráng định gây lại phong trào, nhưng đến ngày 5tháng 10 năm 1887[5] thì ông đã hy sinh trong một trận chiến đấu với đối phương tạilàng Tang Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nhận xét Tướng Pháp tên là Mason nhận định về Đinh Công Tráng như sau: (Ông) là người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủhạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binhcẩu thả, giỏi lập trận thế[6]. Đề cập đến sự thất bại của ông, nhóm tác giả sách Đại cương lịch sửViệtNam(Tập 2) cho rằng: Thất bại của ông bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà trực tiếp là do chiếnthuật phòng ngự bị động, với việc lập chiến tuyến cố thủ tại một vùng đồng chiêmtrũng, địa bàn chật hẹp, dễ dàng bị cô lập khi bị đối phương bao vây hoặc tấn công.Đây được coi là điển hình của lối đánh chuyến tuyến cố định[7]. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đinh Công Tráng Đinh Công Tráng Đinh Công Tráng (1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (têncứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá) trong phong trào Cần vương chống Phápở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam. 7 Liên kết ngoài Thân thế & sự nghiệp Đinh Công Tráng sinh năm Nhâm Dần (1842) tại làng Trinh Xá, huyện ThanhLiêm (nay là xã Thanh Tân, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Khi quân Pháp tiến hành công cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ, đang là một chánhtổng, ông đến gia nhập đội quân của Hoàng Kế Viêm, rồi tham gia trận Cầu Giấy ngày19 tháng 5 năm 1883. Khởi nghĩa Ba Đình Bài chính: Khởi nghĩa Ba Đình Tháng 7 năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, tướng Tôn Thất Thuyếtđưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ban dụ Cần Vương kêu gọi toàndân kháng chiến. Hưởng ứng, tháng 2 năm 1886[1], Đinh Công Tráng cùng với cácđồng đội của mình đã chọn vùng đất thuộc ba làng là: Mậu Thịnh, Thượng Thọ, MỹKhê (vì mỗi làng có một ngôi đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia,nên gọi là căn cứ Ba Đình; nay thuộc xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa)làm căn cứ kháng chiến lâu dài. Từ đây, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soátcác tuyến giao thông quang trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tảicủa đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp rấtquyết tâm đánh dẹp. Theo giúp Đinh Công Tráng có nhiều cộng sự, trong đó có Phạm Bành là ngườitài giỏi và đắc lực, đã cùng ông chỉ huy lực lượng nghĩa quân đánh bại hai đợt tấncông quy mô lớn của Pháp ngày 18 tháng 12 năm 1886 và ngày 6 tháng 1 năm1887[1]. Trận ngày 18 tháng 12 năm 1886 Quân Pháp gồm 500 lính, có đại bác 80 ly yểm hộ, tấn công căn cứ Ba Đình từhai hướng. Hướng tây nam do trung tá Metzanhzơ (Metzinzer), hướng đông bắc dotrung tá Đôt (Dodds) chỉ huy, nhưng đều bị nghĩa quân đánh lui. Sau trận này, thấykhông thể thắng nhanh được, nên quân Pháp chuyển sang phương án bao vây. Trận ngày 6 tháng 1 năm 1887 - 21 tháng 1 năm 1887 Ngày 6 tháng 1 năm 1887, Trung tá Đôt lại cho quân tấn công đợt nữa, nhưngcũng không thành công, ông bèn cho quân rút ra xa, tổ chức bao vây và chờ viện binh. Không thể để căn cứ Ba Đình tồn tại giữa vùng đồng bằng giáp ranh ThanhHóa và Ninh Bình, làm cản trở công cuộc thôn tính nước Việt, Bộ Tư lệnh quân viễnchinh Pháp quyết định: -Nâng số quân Pháp đánh Ba Đình lên 3.530 lính (1.580 lính Âu và 1.950 línhbản xứ). Ngoài ra, còn 5 nghìn dân binh và giáo dân của linh mục Trần Lục đến tiếptay. -Tăng số pháo sử dụng lên 36 khẩu, trong đó có 4 khẩu 95 ly, 10 khẩu 81 ly, 4khẩu 65 ly,... -Đưa 4 pháo hạm và nhiều thuyền lớn đến yểm trợ và lo việc tiếp vận. -Cử Đại tá Brixô (Brissaud) làm tổng chỉ huy[2]. Sau khi cắt đứt xong đường tiếp tế của nghĩa quân, Đại tá Brissaud liền choquân tiến đánh căn cứ Ba Đình. Lần này, Brissaud vừa cho phun dầu đốt cháy các lũytre, vừa cho nã pháo tới tấp, biến căn cứ Ba Đình thành một biển lửa. Trước sức mạnh của đối phương, đêm 20 rạng 21 tháng 1 năm 1887, ĐinhCông Tráng cho quân phá vòng vây, rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao. Sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887, quân Pháp chiếm được cứ điểm Ba Đình. Saukhi ra sức tàn phá, họ còn bắt buộc triều đình nhà Nguyễn phải xóa tên ba làng trênbản đồ hành chính [3]. Trận đồn Mã Cao Thủ lĩnh Đinh Công Tráng vừa đến Mã Cao, chưa kịp củng cố lực lượng, thì đãbị quân Pháp đuổi theo tấn công. Ngày 2 tháng 2 năm 1887, một trận giao tranh ác liệtđã xảy ra ở đây. Thấy không đủ sức kháng cự, lợi dụng lúc đêm tối, các thủ lĩnh đànhphải cho quân rút theo hướng Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóasáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước. Một số khác theo Đinh Công Trángrút về Nghệ An[4]. Hy sinh Về Nghệ An, Đinh Công Tráng định gây lại phong trào, nhưng đến ngày 5tháng 10 năm 1887[5] thì ông đã hy sinh trong một trận chiến đấu với đối phương tạilàng Tang Yên, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Nhận xét Tướng Pháp tên là Mason nhận định về Đinh Công Tráng như sau: (Ông) là người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủhạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binhcẩu thả, giỏi lập trận thế[6]. Đề cập đến sự thất bại của ông, nhóm tác giả sách Đại cương lịch sửViệtNam(Tập 2) cho rằng: Thất bại của ông bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, mà trực tiếp là do chiếnthuật phòng ngự bị động, với việc lập chiến tuyến cố thủ tại một vùng đồng chiêmtrũng, địa bàn chật hẹp, dễ dàng bị cô lập khi bị đối phương bao vây hoặc tấn công.Đây được coi là điển hình của lối đánh chuyến tuyến cố định[7]. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử việt nam danh nhân lịch sử danh nhân việt nam tiểu sử danh nhân tài liệu lịch sửTài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 148 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 98 1 0 -
69 trang 87 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 61 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 60 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 59 0 0 -
11 trang 52 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 47 0 0 -
Nhật ký Anne Frank - Phần 11 T
6 trang 44 0 0 -
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 43 0 0