Danh mục

Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm - Chương IX: Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tính

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 171.44 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (15 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các bệnh mạn tính không lây là mô hình bệnh tật chính ở các nước có nền kinh tế phát triển. Trong mấy thập kỷ gần đây mối quan hệ giữa dinh dưỡng, chế độ ǎn và các bệnh mạn tính đã được quan tâm nhiều.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm - Chương IX: Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tínhDinh dưỡng và an toàn thực phẩm Chương IX: Dinh dưỡng trong một số bệnh mạn tínhCác bệnh mạn tính không lây là mô hình bệnh tật chính ở các nước có nền kinh tếphát triển. Trong mấy thập kỷ gần đây mối quan hệ giữa dinh dưỡng, chế độ ǎn vàcác bệnh mạn tính đã được quan tâm nhiều.Tuy nhiều điều còn chưa sáng tỏ nhưng các tác giả hầu như đều cho rằng dinhdưỡng là một trong những nhân tố nguy cơ quan trọng. Chúng ta lần lượt xem xétmột số vấn đề mà các bằng chứng về mối liên quan đã tương đối rõ ràng. A.Béo phìBéo phì là một tình trạng sức khỏe có nguyên nhân dinh dưỡng. Thường thườngmột người trưởng thành khoe mạnh, dinh dưỡng hợp lý, cân nặng của hộ đứng yênhoặc dao động trong giới hạn nhất. định. Cân nặng nên có của mỗi người thườngở vào độ tuổi 25-30. Hiện nay, Tổ chức Y tế thế giới thường dùng chỉ số khối cơthể ( Body Mass Index, BMI ) để nhận định tình trạng gầy béo:Người ta coi chỉ số BMI bình thường nên ở giới hạn 20-25, trên 5 là béo và trên 30là quá béo. Các công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong tǎng lên khi chỉ sốBMI quá thấp (gầy) hoặc quá cao (béo).Mọi người đều biết cơ thể giữ được cân nặng ổn định là nhờ trạng thái cân bằnggiữa nǎng lượng do thức ǎn cung cấp và nàng lượng tiêu hao cho lao động và cáchoạt động khác của cơ thể. Cán nặng có thể tǎng lên có thể do chế độ ǎn dư thừavượt quá nhu cầu hoặc do nếp sống làm việc tĩnh tại ít tiêu hao nǎng lượng. Ngườita nhận thấy 60-80% trường hợp béo phì là do nguyên nhân dinh dưỡng, bên cạnhDinh dưỡng và an toàn thực phẩmđó còn có thể do các rối loạn chuyển hóa trang cơ thể thông qua vai trò của hệthống thần kinh và các tuyến nội tiết như tuyến yên, tuyến thượng thận, tuyến giáptrạng và tuyến tụy.Vào trong cơ thể, các chất protein, lipit, gluxit đều có thể chuyển th ành chất béodự trữ. Vì vậy không nên coi ǎn nhiều thịt, nhiều mỡ mới gây béo mà ǎn quá thừachất bột, đường, đồ ngọt đều có thể gây béo. Vị trí phân bố chất béo dự trừ trongcơ thể cũng có ý nghĩa sức khỏe quan trọng. Người ta nhận thấy chất béo tập trungnhiều ở bụng (béo bụng) không tốt đối với sức khỏe. Vì vậy bên cạnh theo dõi chỉsố BMI nên theo dõi thêm tỷ số vòng bụng/vòng mông, khi tỷ số này cao hơn 0,8thì các nguy cơ tǎng lên.Béo phì không tốt đối với sức khỏe, người càng béo các nguy cơ càng nhiều.Trước hết, người béo phì dễ mắc các bệnh tǎng huyết áp, bệnh tim do mạch vành,đái đường, hay bị các rối loạn dạ dày ruột, sỏi mật... Nhiều nghiên cứu cho thấyhàm lượng cholesterol trong máu và huyết áp tǎng lên theo mức độ béo và khi cânnặng giảm sẽ kéo theo giảm huyết áp và cholesrol. ở phụ nữ mãn kinh, các nguycơ ung thư túi mật, ung thư vú và tử cung tǎng lên ở những người béo phì, còn ởnam giới béo phì bệnh ung thư thận và tuyến tiền liệt hay gặp hơn. Thực hiện mộtchế độ ǎn uống hợp lý và hoạt động thể lực đúng mức để duy trì cân nặng ổn địnhở người trưởng thành, đó là nguyên tắc cần thiết để tránh béo phì. ở nhiều nướcphát triển, tỷ lệ người béo lên tới 30-40%, nhất là ở độ tuổi trung niên và chốngbéo phì trở thành một mục tiêu sức khỏe cộng đồng quan trọng. ở Việt nam, tỷ lệngười béo còn thấp nhưng có khuynh hướng gia tǎng nhất là ở các đô thị. Đó làđiều cần được chú ý để có các can thiệp kịp thời.B. DINH DƯỡNG Và CáC BệNH TIM MạCHít có chủ đề nghiên cứu được quan tâm nhiều trong những nǎm gần đây như mốiliên quan giữa chế độ ǎn uống với các bệnh tim mạch. Hiện nay, hầu như mọiDinh dưỡng và an toàn thực phẩmngười đều thừa nhận rằng chế độ dinh dưỡng là một nhân tố quan trọng trongphòng ngừa và xử trí một số bệnh tim mạch, trước hết là bệnh tǎng huyết áp vàbệnh mạch vành.1. Tǎng huyết áp và bệnh mạch não.Yếu tố nguy cơ chính của tai biến mạch máu não là tǎng huyết áp. Các nghiên cứuđều thấy mức huyết áp tǎng lên song song với nguy cơ các lệnh tim do mạch vànhvà tai biến mạch não.Trong các nguyên nhân gây tǎng huyết áp, trước hết người ta thường kể đến lượngmuối trong khẩu phần. Các thống kê dịch tễ cho thấy ở các quần thể dân cư ǎn ítmuối thì bệnh tǎng huyết áp không đáng kể và không thấy có bǎng huyết áp theotuổi. Tuy nhiên, phản ứng của từng cá thể đối với muối ǎn cũng không giống nhau.Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo chế độ ǎn muối 6g/ngày là giới hạnhợp lý để phòng tǎng huyết áp.Bên cạnh muối ǎn còn có một số muối khác cũng có vai trò đối với tǎng huyết áp.Theo một số tác giả, tǎng lượng canxi trong khẩu phần có ảnh hưởng làm giảmhuyết áp. Một số công trình khác nhấn mạnh vai trò của tỷ số KJNA trong khẩuphần và cho rằng chế độ ǎn giàu kali có lợi cho người tǎng huyết áp. Sữa và cácchế phẩm từ sữa là nguồn canxi tốt, các thức ǎn nguồn gốc thực vật như lươngthực, khoai củ, đậu đỗ và các loại rau quả có nhiều kali. Thêm vào đó một lượngcao các axit béo bão hòa trong khẩu phần cũng dẫn đến tǎng huyết áp.Như v ...

Tài liệu được xem nhiều: