Định giá tài sản tài chính với cách tiếp cận quyền chọn thực
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 158.09 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phương pháp truyền thống áp dụng để định giá một tài sản tài chính hoặc một phương án đầu tư là NPV (net present value). Phương pháp này chủ yếu dựa trên nguyên lý về giá trị thời gian của tiền để chiết khấu các dòng tiền trong tương lai về hiện tại. Điều kiện tối thiểu để quyết định đầu tư thường là NPV ≥ 0, hoặc có thể có điều kiện ràng buộc trong một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, phương pháp này luôn bao hàm một số giả định ngầm cần phải xem xét. Ví...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Định giá tài sản tài chính với cách tiếp cận quyền chọn thực Định giá tài sản tài chính với cách tiếp cận quyền chọn thực Phương pháp truyền thống áp dụng để định giá một tài sản tài chính hoặc một phương án đầu tư là NPV (net present value). Phương pháp này chủ yếu dựa trên nguyên lý về giá trị thời gian của tiền để chiết khấu các dòng tiền trong tương lai về hiện tại. Điều kiện tối thiểu để quyết định đầu tư thường là NPV ≥ 0, hoặc có thể có điều kiện ràng buộc trong một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, phương pháp này luôn bao hàm một số giả định ngầm cần phải xem xét. Ví dụ, NPV giả định rằng việc đầu tư là có thể đảo ngược, nghĩa là bằng cách nào đó người ta thôi không thực hiện việc đầu tư và phục hồi lại các chi phí khi điều kiện thị trường trở nên bất lợi. Trong trường hợp không thể đảo ngược quyết định đầu tư, phương pháp này giả định rằng sẽ tồn tại một đề nghị bây giờ hoặc không bao giờ, đồng nghĩa với việc công ty sẽ thực hiện đầu tư ngay bây giờ hoặc không bao giờ có cơ hội ấy nữa. Thực tế, phần lớn các cơ hội đầu tư đều không diễn ra như vậy. Hai tính chất rất quan trọng của hoạt động đầu tư là tính không thể đảo ngược và khả năng trì hoãn. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học đã chứng minh rằng hai tính chất này ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến việc ra quyết định đầu tư. Đồng thời chúng cũng làm suy yếu phương pháp NPV đơn giản và cơ sở lý thuyết của mô hình đầu tư tân cổ điển. Lý do là: một công ty nắm trong tay một cơ hội đầu tư cũng là nắm giữ một quyền chọn tương tự như quyền chọn mua trong tài chính. Công ty đó có quyền nhưng không bắt buộc phải đầu tư vào một thời điểm chọn trước trong tương lai. Khi nó quyết định thực thi quyền chọn đầu tư, chi phí bỏ ra không thể hoàn lại được. Cũng vào lúc đó, nó bỏ qua cơ hội chờ đợi để có những thông tin mới có khả năng ảnh hưởng đến mong muốn và thời điểm đầu tư, cũng như không thể đầu tư lại khi điều kiện thị trường thay đổi. Mặt khác, giá trị mất đi để có được quyền chọn này là một chi phí cơ hội cần được tính toán như một bộ phận của chi phí đầu tư. Như vậy, công thức đơn giản của NPV đầu tư khi giá trị của một đơn vị vốn tối thiểu bằng chi phí cố định cần thay đổi. Giá trị của một đơn vị vốn bây giờ phải vượt quá chi phí cố định một lượng bằng với chi phí để duy trì quyền chọn đầu tư. Những nghiên cứu mới đây đã chứng tỏ rằng phần chi phí cơ hội này là khá lớn, và những phương pháp định giá bỏ qua nó là hết sức sai lầm. Ngoài ra, phần chi phí cơ hội này cũng rất nhạy cảm với yếu tố không chắc chắn của dự án đầu tư. Ví dụ như, điều kiện kinh tế thay đổi tác động đến yếu tố rủi ro nhận biết được về dòng tiền mặt trong tương lai, và do đó có ảnh hưởng đến tiêu dùng cho đầu tư lớn hơn ảnh hưởng do lãi suất thay đổi. Điều này góp phần giải thích vì sao lý thuyết đầu tư tân cổ điển thất bại trong việc mô hình hóa hành vi đầu tư phù hợp với thực tế, dẫn tới những dự báo quá lạc quan về tác động của lãi suất và chính sách thuế đến thúc đẩy đầu tư. Mặt khác, doanh nghiệp đầu tư với kỳ vọng thu lời vượt quá một mức lãi suất yêu cầu nào đó (hay còn được gọi là lãi suất rào cản). Quan sát cho thấy, mức lãi suất rào cản này thường lớn gấp ba đến bốn lần chi phí tư bản. Theo một cuộc điều tra năm 1987, mức lãi suất yêu cầu thường từ 8 đến 30% với giá trị trung bình là 17%. Nói cách khác, doanh nghiệp sẽ không đầu tư chừng nào giá cả tăng chưa đáng kể so với chi phí trung bình dài hạn. Trong trường hợp xảy ra tình trạng suy thoái, doanh nghiệp tiếp tục duy trì kinh doanh trong khi phải gánh chịu lỗ từ hoạt động vận hành một thời gian dài; giá cả có thể xuống thấp hơn mức chi phí trung bình dài hạn nhưng doanh nghiệp vẫn không rút vốn hay thu hồi đầu tư. Điều này dường như mâu thuẫn với lý thuyết NPV và chỉ có thể được giải thích khi xem xét tính chất không thể đảo ngược và tiếp cận đầu tư theo quan điểm quyền chọn. Tính không thể đảo ngược và Khả năng trì hoãn Câu hỏi đầu tiên cần giải quyết khi tìm hiểu về vấn đề này là: nguyên nhân nào đã gây ra chi phí ngầm và do đó làm cho quyết định đầu tư là không thể đảo ngược? Khi chi tiêu cho hoạt động đầu là các khoản chi liên quan đến đặc trưng của công ty hay của ngành thì đó là chi phí ngầm. Điển hình như chi phí dành cho tiếp thị quảng cáo là chi phí không thể phục hồi được, nên rõ ràng nó là chi phí ngầm. Hay một dây chuyền sản xuất thép cũng như vậy, nó chỉ có thể dùng để sản xuất thép mà không thể sản xuất ra một thứ gì khác. Nếu nghĩ rằng, công ty có thể bán dây chuyền này cho một công ty khác cùng ngành và phục hồi lại chi phí đã bỏ ra thì đã hoàn toàn sai lầm. Trong điều kiện cạnh tranh hợp lý, giá trị của dây chuyền sản xuất trên là tương đương với tất cả các công ty khác cùng ngành. Vì vậy, sẽ chẳng được lợi gì từ việc bán lại nó. Ví dụ, khi công việc kinh doanh thép đang ế ẩm, dây chuyền sản xuất xuống giá, thì công ty nào trong ngành thép cũng phải đối mặt với tình hình kinh doanh như vậy. Khả năng bán lại dây chuyền thép do đó cũng không cũng không được giá. Kết quả là, chi phí đầu tư cho dây chuyền này gây ra một lượng chi phí ngầm khá lớn. Thậm chí, ngay cả những khoản đầu tư không mang tính đặc trưng của ngành hay của công ty thì cũng phần nào mang tính không thể đảo ngược. Bởi vì, những người mua lại tài sản đã qua sử dụng trên thị trường không thể đánh giá được chính xác chất lượng của tài sản và họ sẽ đề nghị một mức giá tương đương với một chất lượng trung bình trên thị trường. Những người bán biết rõ giá trị tài sản của họ nhưng đành phải miễn cưỡng bán với giá này.Ví dụ, ô tô, xe tải hay máy tính cho dù gần như mới, nhưng nếu bán lại nó sẽ chỉ bán được với giá thấp hơn nhiều so với giá mua. Tính chất không thể đảo ngược còn được thể hiện rõ hơn khi chính phủ thay đổi hay ra nghị định mới hoặc sắp xếp lại tổ chức. Dễ thấy như sự kiểm soát tài chính có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài hoặc trong nước khi muốn bán tài sản hoặc tái phân bổ quỹ đầu tư của họ. Đầu tư vào nguồn nhân lực cũng phần ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Định giá tài sản tài chính với cách tiếp cận quyền chọn thực Định giá tài sản tài chính với cách tiếp cận quyền chọn thực Phương pháp truyền thống áp dụng để định giá một tài sản tài chính hoặc một phương án đầu tư là NPV (net present value). Phương pháp này chủ yếu dựa trên nguyên lý về giá trị thời gian của tiền để chiết khấu các dòng tiền trong tương lai về hiện tại. Điều kiện tối thiểu để quyết định đầu tư thường là NPV ≥ 0, hoặc có thể có điều kiện ràng buộc trong một số trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, phương pháp này luôn bao hàm một số giả định ngầm cần phải xem xét. Ví dụ, NPV giả định rằng việc đầu tư là có thể đảo ngược, nghĩa là bằng cách nào đó người ta thôi không thực hiện việc đầu tư và phục hồi lại các chi phí khi điều kiện thị trường trở nên bất lợi. Trong trường hợp không thể đảo ngược quyết định đầu tư, phương pháp này giả định rằng sẽ tồn tại một đề nghị bây giờ hoặc không bao giờ, đồng nghĩa với việc công ty sẽ thực hiện đầu tư ngay bây giờ hoặc không bao giờ có cơ hội ấy nữa. Thực tế, phần lớn các cơ hội đầu tư đều không diễn ra như vậy. Hai tính chất rất quan trọng của hoạt động đầu tư là tính không thể đảo ngược và khả năng trì hoãn. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học đã chứng minh rằng hai tính chất này ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến việc ra quyết định đầu tư. Đồng thời chúng cũng làm suy yếu phương pháp NPV đơn giản và cơ sở lý thuyết của mô hình đầu tư tân cổ điển. Lý do là: một công ty nắm trong tay một cơ hội đầu tư cũng là nắm giữ một quyền chọn tương tự như quyền chọn mua trong tài chính. Công ty đó có quyền nhưng không bắt buộc phải đầu tư vào một thời điểm chọn trước trong tương lai. Khi nó quyết định thực thi quyền chọn đầu tư, chi phí bỏ ra không thể hoàn lại được. Cũng vào lúc đó, nó bỏ qua cơ hội chờ đợi để có những thông tin mới có khả năng ảnh hưởng đến mong muốn và thời điểm đầu tư, cũng như không thể đầu tư lại khi điều kiện thị trường thay đổi. Mặt khác, giá trị mất đi để có được quyền chọn này là một chi phí cơ hội cần được tính toán như một bộ phận của chi phí đầu tư. Như vậy, công thức đơn giản của NPV đầu tư khi giá trị của một đơn vị vốn tối thiểu bằng chi phí cố định cần thay đổi. Giá trị của một đơn vị vốn bây giờ phải vượt quá chi phí cố định một lượng bằng với chi phí để duy trì quyền chọn đầu tư. Những nghiên cứu mới đây đã chứng tỏ rằng phần chi phí cơ hội này là khá lớn, và những phương pháp định giá bỏ qua nó là hết sức sai lầm. Ngoài ra, phần chi phí cơ hội này cũng rất nhạy cảm với yếu tố không chắc chắn của dự án đầu tư. Ví dụ như, điều kiện kinh tế thay đổi tác động đến yếu tố rủi ro nhận biết được về dòng tiền mặt trong tương lai, và do đó có ảnh hưởng đến tiêu dùng cho đầu tư lớn hơn ảnh hưởng do lãi suất thay đổi. Điều này góp phần giải thích vì sao lý thuyết đầu tư tân cổ điển thất bại trong việc mô hình hóa hành vi đầu tư phù hợp với thực tế, dẫn tới những dự báo quá lạc quan về tác động của lãi suất và chính sách thuế đến thúc đẩy đầu tư. Mặt khác, doanh nghiệp đầu tư với kỳ vọng thu lời vượt quá một mức lãi suất yêu cầu nào đó (hay còn được gọi là lãi suất rào cản). Quan sát cho thấy, mức lãi suất rào cản này thường lớn gấp ba đến bốn lần chi phí tư bản. Theo một cuộc điều tra năm 1987, mức lãi suất yêu cầu thường từ 8 đến 30% với giá trị trung bình là 17%. Nói cách khác, doanh nghiệp sẽ không đầu tư chừng nào giá cả tăng chưa đáng kể so với chi phí trung bình dài hạn. Trong trường hợp xảy ra tình trạng suy thoái, doanh nghiệp tiếp tục duy trì kinh doanh trong khi phải gánh chịu lỗ từ hoạt động vận hành một thời gian dài; giá cả có thể xuống thấp hơn mức chi phí trung bình dài hạn nhưng doanh nghiệp vẫn không rút vốn hay thu hồi đầu tư. Điều này dường như mâu thuẫn với lý thuyết NPV và chỉ có thể được giải thích khi xem xét tính chất không thể đảo ngược và tiếp cận đầu tư theo quan điểm quyền chọn. Tính không thể đảo ngược và Khả năng trì hoãn Câu hỏi đầu tiên cần giải quyết khi tìm hiểu về vấn đề này là: nguyên nhân nào đã gây ra chi phí ngầm và do đó làm cho quyết định đầu tư là không thể đảo ngược? Khi chi tiêu cho hoạt động đầu là các khoản chi liên quan đến đặc trưng của công ty hay của ngành thì đó là chi phí ngầm. Điển hình như chi phí dành cho tiếp thị quảng cáo là chi phí không thể phục hồi được, nên rõ ràng nó là chi phí ngầm. Hay một dây chuyền sản xuất thép cũng như vậy, nó chỉ có thể dùng để sản xuất thép mà không thể sản xuất ra một thứ gì khác. Nếu nghĩ rằng, công ty có thể bán dây chuyền này cho một công ty khác cùng ngành và phục hồi lại chi phí đã bỏ ra thì đã hoàn toàn sai lầm. Trong điều kiện cạnh tranh hợp lý, giá trị của dây chuyền sản xuất trên là tương đương với tất cả các công ty khác cùng ngành. Vì vậy, sẽ chẳng được lợi gì từ việc bán lại nó. Ví dụ, khi công việc kinh doanh thép đang ế ẩm, dây chuyền sản xuất xuống giá, thì công ty nào trong ngành thép cũng phải đối mặt với tình hình kinh doanh như vậy. Khả năng bán lại dây chuyền thép do đó cũng không cũng không được giá. Kết quả là, chi phí đầu tư cho dây chuyền này gây ra một lượng chi phí ngầm khá lớn. Thậm chí, ngay cả những khoản đầu tư không mang tính đặc trưng của ngành hay của công ty thì cũng phần nào mang tính không thể đảo ngược. Bởi vì, những người mua lại tài sản đã qua sử dụng trên thị trường không thể đánh giá được chính xác chất lượng của tài sản và họ sẽ đề nghị một mức giá tương đương với một chất lượng trung bình trên thị trường. Những người bán biết rõ giá trị tài sản của họ nhưng đành phải miễn cưỡng bán với giá này.Ví dụ, ô tô, xe tải hay máy tính cho dù gần như mới, nhưng nếu bán lại nó sẽ chỉ bán được với giá thấp hơn nhiều so với giá mua. Tính chất không thể đảo ngược còn được thể hiện rõ hơn khi chính phủ thay đổi hay ra nghị định mới hoặc sắp xếp lại tổ chức. Dễ thấy như sự kiểm soát tài chính có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài hoặc trong nước khi muốn bán tài sản hoặc tái phân bổ quỹ đầu tư của họ. Đầu tư vào nguồn nhân lực cũng phần ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài chính ngân hàng tín dụng Định giá tài sản tài chính phương án đầu tưGợi ý tài liệu liên quan:
-
2 trang 506 0 0
-
6 trang 182 0 0
-
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN- CHUẨN MỰC SỐ 2- HÀNG TỒN KHO
6 trang 129 0 0 -
Đề tài: Thực trạng thanh toán tiền măt ở nước ta
9 trang 124 0 0 -
Phân tích cơ bản - vàng và ngoại tệ
42 trang 93 0 0 -
Kế toán thực chứng: Hướng đúng phát triển ngành kế toán Việt Nam?
11 trang 89 0 0 -
Không ưu đãi thuế, quỹ mở phải… khép
3 trang 81 0 0 -
Chính thức công bố kế hoạch cải cách hệ thống thuế
2 trang 76 0 0 -
Phòng ngừa rủi ro trong Ngân hàng thương mại
5 trang 71 0 0 -
3 trang 70 0 0