Danh mục

Đô la hóa và tỷ giá hối đoái của Việt Nam

Số trang: 3      Loại file: doc      Dung lượng: 52.50 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (3 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vì sao nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia… đều thực hiện được việc sử dụng đồng tiền của từng quốc gia trên thị trường nội địa? Các nước đó đã đáp ứng được cả hai yêu cầu về giao dịch ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp: lợi ích và tiện ích.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đô la hóa và tỷ giá hối đoái của Việt Nam Đô la hóa và tỷ giá hối đoái của Việt Nam (bài 2) Vietstock - 1 tháng trước 219 lượt xem 3 tin đăng lại Vì sao nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia… đều thực hiện được việc sử dụng đồng tiền của từng quốc gia trên thị trường nội địa(?). Các nước đó đã đáp ứng được cả hai yêu cầu về giao dịch ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp: lợi ích và tiện ích. Viết bình luậnLưu bài này Đã có những kiến nghị về các giải pháp khắc phục sự biến động tỷ giá hối đoái như làm giảm căng thẳng nhu cầu USD bằng việc sử dụng nhiều loại ngoại tệ trong thương mại và dịch vụ với nước ngoài, vay và trả nợ quốc tế, dự trữ quốc gia, có chính sách tỷ giá ổn định và linh hoạt với sự điều hành đồng bộ và phản ứng kịp thời của Ngân hàng Nhà nước về tín dụng, lãi suất, tỷ giá, cũng như việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, xử phạt vi phạm pháp luật về ngoại tệ. Đó là những giải pháp quan trọng và cần thiết, nhưng chưa giải quyết được về cơ bản tình trạng đô la hóa không chính thức ở nước ta. Thái Lan đã neo tỷ giá trong 13 năm từ 1984 - 1997 là 1 USD/24-25 bath, đã thả nổi tỷ giá từ tháng 7/1997 khởi đầu cuộc khủng hoảng tiền tệ của khu vực, mấy năm gần đây đã ổn định tỷ giá. Mặc dù giao dịch hàng ngày của nước này bằng ngoại tệ trong thương mại, đầu tư, du lịch với khối lượng rất lớn, nhưng tất cả đều được thực hiện qua mạng lưới rộng khắp, thuận tiện với tỷ giá thống nhất, cộng với một khoản phí dịch vụ. Ở nước ta, hiện có hai tỷ giá ngoại tệ: tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố được các ngân hàng thương mại áp dụng với biên độ hiện nay là +/- 3% và tỷ giá trên thị trường (chợ đen). Khoảng lệch giữa hai tỷ giá này tùy thuộc vào tình hình ngoại tệ; gần sát nhau trong trạng thái thị trường ngoại tệ ổn định, có xu hướng doãng ra khi cung- cầu ngoại tệ căng thẳng. Cần phải thừa nhận rằng, mặc dù Nhà nước không cho phép, nói một cách khác là bất hợp pháp, nhưng giao dịch ngoại tệ tại một số trung tâm của các thành phố lớn (như Hà Trung ở Hà Nội) đã diễn ra khá sôi động, kể cả khi Ngân hàng Nhà nước tăng cường kiểm soát, vì chừng nào tồn tại tỷ giá thị trường (chợ đen) cao hơn tỷ giá chính thức thì người mua và bán ngoại tệ vẫn lựa chọn tỷ giá cao; hơn nữa, hoạt động trao đổi ngoại tệ trên thị trường (chợ đen) còn có ưu điểm về tiện ích cho người dân, chỉ cần gọi điện thoại đến các cơ sở đổi tiền là có người mang đến tận nhà một lượng tiền lớn. Ổn định giá trị VND, chính sách tỷ giá hợp lý, một mạng lưới giao dịch ngoại tệ đủ bảo đảm lợi ích và tiện ích của doanh nghiệp và người dân là các yếu tố quan trọng nhất. Để ổn định giá trị của VND, Ngân hàng Nhà nước chủ trương điều chỉnh giảm các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2010 còn 25%. Đó là một chủ trương đúng đắn để ổn định giá trị thực của VND, nhưng chưa đủ. Để giảm M2 trên thị trường, thì cần phải quan tâm không chỉ tín dụng, mà cả lượng cung ứng thực và hiệu quả đầu tư. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu chuyên đề, trong khuôn khổ đề tài này chỉ nêu lên một số nội dung chủ yếu. Lượng cung ứng thực có liên quan đến tốc độ tăng trưởng kinh tế đáp ứng được mức tăng nhu cầu có khả năng thanh toán trên thị trường nội địa (+/- xuất khẩu và nhập khẩu). Nếu năm 2010 đạt được tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến 6,5%, trong khi tổng vốn đầu tư xã hội so với tổng GDP >40%, thì như một số chuyên gia nhận định, CPI sẽ cao hơn năm 2009 là nguy cơ tiềm ẩn, do lượng tiền tệ trong lưu thông tăng tương ứng với tăng khối lượng và giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xã hội. So với nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước thành công trong thời kỳ công nghiệp hóa, tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của nước ta thuộc loại cao nhất. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã từng kiến nghị giảm tỷ lệ đó xuống 35-36% để không gây ra tình trạng quá nóng về kinh tế. Bố trí cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế - kỹ thuật, theo vùng lãnh thổ và nhất là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp quốc doanh là những vấn đề cần được tính toán khách quan và khoa học để nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội việc sử dụng vốn đầu tư. Đó là vấn đề có tầm quan trọng to lớn, nhằm đạt được tốc độ tăng cao, nhưng kiềm chế được CPI ở mức thấp. Các bộ, ngành cần làm nhiều hơn việc xây dựng các định mức kinh tế - kỹ thuật, đưa ra chỉ dẫn về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từng ngành, từng sản phẩm theo các chuẩn mực quốc gia với phương pháp thống nhất để các cơ quan nhà nước có cơ sở thẩm định dự án đầu tư không phải dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa cánh hẩu như cách nói của nhiều người khi đề cập đặc điểm quản lý nhà nước ở châu Á, mà dựa trên luận cứ khoa học. Các dự án không bảo đảm những định mức kinh tế- kỹ thuật, kể cả những dự án đã được cấp phép cần bị đình chỉ để nước ta phát triển theo hướng chất lượng và hiệu quả, chuẩn bị tốt hành trình bước vào thập niên thứ hai ...

Tài liệu được xem nhiều: