Danh mục

Đo lường bộ ba bất khả thi của Việt Nam trước và sau khủng hoảng tài chính 2008

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 329.46 KB      Lượt xem: 24      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bộ ba bất khả thi là một chính sách kinh tế quốc tế. Aizenman-Chinn-Ito (2008) đưa ra cách để đo lường 3 mục tiêu của bộ ba này. Trong bài này, bộ ba bất khả thi của Việt Nam trước và sau khủng hoảng tài chính 2008 sẽ được xem xét và so sánh với các quốc gia trong vùng. Kết quả cho thấy Việt Nam và các quốc gia này đều phải chọn lấy 2 trong 3 mục tiêu để thực hiện thì mục tiêu còn lại sẽ không đạt được.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đo lường bộ ba bất khả thi của Việt Nam trước và sau khủng hoảng tài chính 2008 HỘI THẢO 'NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG' ĐO LƯỜNG BỘ BA BẤT KHẢ THI CỦA VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 2008 ThS. Đỗ Vĩnh Trúc Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TPCHM dvtruc@hcmiu.edu.vn TÓM TẮT Bộ ba bất khả thi là một chính sách kinh tế quốc tế. Aizenman-Chinn-Ito (2008) đưa ra cách để đo lường 3 mục tiêu của bộ ba này. Trong bài này, bộ ba bất khả thi của Việt Nam trước và sau khủng hoảng tài chính 2008 sẽ được xem xét và so sánh với các quốc gia trong vùng. Kết quả cho thấy Việt Nam và các quốc gia này đều phải chọn lấy 2 trong 3 mục tiêu để thực hiện thì mục tiêu còn lại sẽ không đạt được. Cụ thể chính sách sau khủng hoảng 2008 và trong tương lai của nước ta là gia tăng hội nhập tài chính, tỷ giá linh hoạt hơn và độc lập tiền tệ ở mức độ vừa phải. Bài viết cũng đặt câu hỏi nên chăng Việt Nam cẩn thận trong hội nhập tài chính, để cho tỷ giá linh hoạt hơn, cải cách và nâng cao hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ. Từ khóa: Bộ ba bất khả thi; chính sách tiền tệ; độc lập tiền tệ; độ ổn định tỷ giá; hội nhập tài chính, KAOPEN. 1. Giới thiệu Lý thuyết bộ ba bất khả thi là một chính sách kinh tế quốc tế. Đây là một trong những lý thuyết rất quan trọng của tài chính quốc tế được dựa trên những ý tưởng của Robert Mundell và Marcus Fleming về IS-LM trong giải Nobel kinh tế vào thập niên 1960.Từ những phát hiện trên, Krugman (1979) và Frankel (1999) đã mở rộng mô hình Mundell-Fleming thành mô hình bất khả thi. Mô hình cho thấy rằng một quốc gia phải từ bỏ một trong 3 mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá, và hội nhập tài chính. Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã đưa ra phương thức để đo lường 3 mục tiêu này. 2. Cơ sở lý thuyết 2.1. Lý luận Thị trường vốn đóng Chính sách Ổn định tỷ giá tiền tệ độc lập Tỷ giá thả nổi Tỷ giá cố định Hội nhập tài chính Hình 1: Tam giác bộ ba bất khả thi Hình 1 minh họa nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi cạnh của tam giác thể hiện cho các mục tiêu lần lượt là chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính. Đối nghịch với một mục tiêu (một cạnh) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Có được mục tiêu hội nhập tài chính thì phải chấp nhận đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn, mục tiêu ổn định tỷ giá đối 447 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn, mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh tỷ giá cố định. Bất kỳ cặp mục tiêu nào (cặp cạnh) cũng có thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa và do vậy một quốc gia hoàn toàn không thể đạt được đồng thời cả ba mục tiêu. Chi tiết như sau: (i) Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài. (ii) Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi. Với lựa chọn này, Ngân hàng trung ương được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường. (iii) Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng hay chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn hoàn toàn. Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ. Rose (1995) đề xuất đo lường độc lập tiền tệ bằng cách xem xét phản ứng của tỷ giá hối đoái với những thay đổi trong sản lượng, lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này lại có nhược điểm là khó phân biệt được trên thực tế đâu là một cú sốc cung và đâu là cú sốc cầu tiền tệ, chưa nói đến giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi. Obstfeld (2004) đề xuất việc đo lường độc lập tiền tệ dựa vào mức thay đổi của lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Tuy nhiên, phương pháp này cũng gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào trực giác khi cho rằng chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ. Để đánh giá mức độ ổn định thực tế của tỷ giá, một số tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính dựa theo tỷ giá trao đổi tiền tệ chéo, được sử dụng đầu tiên bởi Haldane và Hall (1991), sau đó được phổ biến bởi Frankel và Wei (2007) - mô hình Frankel-Wei. Gần đây cách đo lường này cũng được vận dụng trong những nghiên cứu của các tác giả khác như Bénassy-Quéré, Coeuré, và Mignon (2006), Shah, Zeileis, và Patnaik (2005), Frankel và Wei (2007). Lane và Milesi-Ferretti (2007) đề xuất đo lường hội nhập tài chính vào nền kinh tế thế giới trên thực tế bằng tỷ lệ cổ phiếu của các tài sản nước ngoài và nợ trong nước dựa theo cách tổng hợp các cân thánh toán. Đây là cơ sở dữ liệu có giá trị ở chỗ mức độ kiểm soát tài khoản vốn được phản ánh trong cán cân thanh toán. Nhưng nó không đo lường vốn chu chuyển qua đường tiểu ngạch. Aizenman, Chinn, và Ito (2008) phát triển một tập hợp gồm nhiều chỉ số của lý thuyết bộ ba bất khả thi để đo lường mức độ của mỗi 1 trong 3 lựa chọn chính sách đã được thực thi trong các nền kinh tế. Trong mô hình đề nghị này, các tác giả cho thấy tổng các chỉ số này là hằng số, thì 2 trong 3 chỉ số tăng/giảm thì chỉ số còn lại phải giảm/tăng, 3 thước đ ...

Tài liệu được xem nhiều: