Đoàn Thị Điểm
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 157.54 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ, là nữ sĩ ViệtNamthời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả, và là dịch giả bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩ danh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và Sương Nguyệt Anh. Tiểu sử.Đoàn Thị Điểm là người làng Giai Phạm[2], huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Theo gia...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ, là nữ sĩ ViệtNamthời Lêtrung hưng. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả, và là dịch giả bản Chinh phụngâm của Đặng Trần Côn. Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩdanh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và SươngNguyệt Anh. Tiểu sử Đoàn Thị Điểm là người làng Giai Phạm[2], huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc(nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Theo gia phả họ Đoàn là Đoàn thị thực lục, thì tổ tiên của bà vốn họ Lê, đếnđời cha bà là Đoàn Doãn Nghi (1678-1729), mới đổi ra họ Đoàn. Ông Doãn Nghi thiđỗ Hương cống (Cử nhân) đời Lê, thi Hội không đỗ, nên ở nhà dạy học và bốc thuốc.Ông cưới vợ (họ Vũ, không rõ tên), sinh được hai con: con cả là Đoàn Doãn Luân(1700 - ?)[3] và con thứ là Đoàn Thị Điểm [4]. Lúc trẻ, bà có tiếng thông minh, đẹp người, đẹp nết, chăm học, có tài văn vàgiỏi cả việc nữ công [5]. Cho nên năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấnnhận làm con nuôi để sau dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà không chịu [6]. Suốt thời gian từ lúc ấu thơ đến tuổi trưởng thành, bà thường sống với cha vàanh ở nơi cha dạy học là làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An; nay thuộcthành phố Hải Phòng).[7]. Năm bà 25 tuổi (1729), cha mất, bà cùng với gia đình của anh dời đến ngụ ởlàng Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Chẳng bao lâu sau anh mất (không rõ năm), bỏ lại một đàn con nhỏ, một mìnhĐoàn Thị Điểm phải vừa làm thuốc, vừa dạy học để có tiền nuôi mẹ và giúp đỡ chịdâu nuôi các cháu. Theo Từ điển nhân vật lịch ViệtNam, khi ấy ở Sài Trang thuộc huyện ĐườngHào có một người con gái được tiến cung, và bà đã được vời vào cung làm Giáo thụđể dạy người con gái ấy. Đến năm 1739, nhân trong nước có loạn, bà xin từ chức vềngụ ở xã Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, ngoại thành Hà Nội) tiếp tục làmnghề dạy học [8]. Bấy giờ, có nhiều đến hỏi, trong đó có cả những người quyền quý, nhưng bàđều từ chối [9]. Mãi đến năm 37 tuổi (1742), bà mới nhận lời lấy Nguyễn Kiều(1695?-1792?), một Tiến sĩ nổi tiếng hay chữ đã góa vợ. Nhưng vừa cưới xong,Nguyễn Kiều lại phải đi sứ sang Trung Quốc ba năm. Theo Từ điển văn học (bộ mới),có lẽ trong thời gian xa chồng này bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh phụ ngâm củadanh sĩ Đặng Trần Côn. Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước. Năm 1748, ông được cử làm Tham thị ởNghệ An[10]. Đoàn Thị Điểm cùng đi với chồng, nhưng trên đường đi, bà bị cảmnặng, chạy chữa không khỏi, cuối cùng mất ở Nghệ An vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch)năm đó (Mậu Thìn, 1748), lúc 43 tuổi [11] Thương cảm người bạn đời vắn số, Nguyễn Kiều viết bài văn tế, hết lời ca tụngvăn tài và đức hạnh của bà. Trong đó có câu: Đào chưa tươi đã khô Quế đang thơm đã rũ Rừng sâu bể rộng nàng hỡi đi đâu Ngọc nát châu chìm lòng tôi quặn nhớ... Sự nghiệp văn chương Theo Đoàn thị thực lục, lúc sinh thời bà thường xướng họa thơ với cha, với anhvà với chồng[12]. Song cho đến nay, về sáng tác, bà chỉ còn có tập truyện chữ Hán tênlà Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), và một ít thơ văn (gồmchữ Hán, chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây,nhưng trong đó có không ít sai lẫn [13]. Về bản dịch Chinh phụ ngâm (Chinh phụ ngâm khúc diễn âm) của bà, hiện nayvẫn chưa khẳng định là bản nào. Nhiều người cho đó là bản đang lưu hành rộng rãi,nhưng có ý kiến nói bản đó là của Phan Huy Ích[14], còn bản của nữ sĩ họ Đoàn làmột bản khác. Song theo GS. Nguyễn Lộc, thì một điều có thể khẳng định được làbản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm là bản dịch đầu tiên của tác phẩmnày[13]. Giai thoại Có lần Đoàn Doãn Luân thấy Đoàn Thị Điểm đang ngồi soi gương, bèn ra mộtvế rằng: Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (nghĩa là “soi gương vẽmày, một nét hóa thành hai nét”; song chữ điểm còn là tên bà Điểm, thành ra lại cónghĩa nữa là “một bà Điểm hóa hai bà Điểm”). Lúc ấy, ông Luân đang ngồi trên cầu ao rửa tay, bà liền đối rằng: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (nghĩa là “ra ao ngắmtrăng, một vầng chuyển hóa hai vầng; song chữ luân còn là tên của ông Luân, thành ralại có nghĩa nữa là “một ông Luân hóa hai ông Luân)[15]. Ngoài ra, trong dân gian còn truyền tụng một số chuyện như “Da trắng vỗ bìbạch (ra vế đối cho Cống Quỳnh đối lại), Hổ thật thành hổ giấy (ra vế đối choTràng An tứ hổ đối lại), Trượng phu Bắc quốc đều từ đó mà ra (đáp lại câu đốicủa sứ thần Trung Quốc), v.v...[16]. Thông tin liên quan Trước đây, chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là Tiến sĩ Nguyễn Kiều được an tángtại khu vực Vườn Đào (thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nộingày nay). Do yêu cầu giải phóng mặt bằng ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ, là nữ sĩ ViệtNamthời Lêtrung hưng. Bà là tác giả tập truyện Truyền kỳ tân phả, và là dịch giả bản Chinh phụngâm của Đặng Trần Côn. Bà là người được đánh giá là bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài văn trong những nữ sĩdanh tiếng nhất, bên cạnh là Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan và SươngNguyệt Anh. Tiểu sử Đoàn Thị Điểm là người làng Giai Phạm[2], huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc(nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Theo gia phả họ Đoàn là Đoàn thị thực lục, thì tổ tiên của bà vốn họ Lê, đếnđời cha bà là Đoàn Doãn Nghi (1678-1729), mới đổi ra họ Đoàn. Ông Doãn Nghi thiđỗ Hương cống (Cử nhân) đời Lê, thi Hội không đỗ, nên ở nhà dạy học và bốc thuốc.Ông cưới vợ (họ Vũ, không rõ tên), sinh được hai con: con cả là Đoàn Doãn Luân(1700 - ?)[3] và con thứ là Đoàn Thị Điểm [4]. Lúc trẻ, bà có tiếng thông minh, đẹp người, đẹp nết, chăm học, có tài văn vàgiỏi cả việc nữ công [5]. Cho nên năm 16 tuổi, bà được Thượng thư Lê Anh Tuấnnhận làm con nuôi để sau dâng lên chúa Trịnh, nhưng bà không chịu [6]. Suốt thời gian từ lúc ấu thơ đến tuổi trưởng thành, bà thường sống với cha vàanh ở nơi cha dạy học là làng Lạc Viên (huyện An Dương, tỉnh Kiến An; nay thuộcthành phố Hải Phòng).[7]. Năm bà 25 tuổi (1729), cha mất, bà cùng với gia đình của anh dời đến ngụ ởlàng Vô Ngại, huyện Đường Hào (nay là huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên). Chẳng bao lâu sau anh mất (không rõ năm), bỏ lại một đàn con nhỏ, một mìnhĐoàn Thị Điểm phải vừa làm thuốc, vừa dạy học để có tiền nuôi mẹ và giúp đỡ chịdâu nuôi các cháu. Theo Từ điển nhân vật lịch ViệtNam, khi ấy ở Sài Trang thuộc huyện ĐườngHào có một người con gái được tiến cung, và bà đã được vời vào cung làm Giáo thụđể dạy người con gái ấy. Đến năm 1739, nhân trong nước có loạn, bà xin từ chức vềngụ ở xã Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, ngoại thành Hà Nội) tiếp tục làmnghề dạy học [8]. Bấy giờ, có nhiều đến hỏi, trong đó có cả những người quyền quý, nhưng bàđều từ chối [9]. Mãi đến năm 37 tuổi (1742), bà mới nhận lời lấy Nguyễn Kiều(1695?-1792?), một Tiến sĩ nổi tiếng hay chữ đã góa vợ. Nhưng vừa cưới xong,Nguyễn Kiều lại phải đi sứ sang Trung Quốc ba năm. Theo Từ điển văn học (bộ mới),có lẽ trong thời gian xa chồng này bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh phụ ngâm củadanh sĩ Đặng Trần Côn. Năm 1745, Nguyễn Kiều về nước. Năm 1748, ông được cử làm Tham thị ởNghệ An[10]. Đoàn Thị Điểm cùng đi với chồng, nhưng trên đường đi, bà bị cảmnặng, chạy chữa không khỏi, cuối cùng mất ở Nghệ An vào ngày 11 tháng 9 (âm lịch)năm đó (Mậu Thìn, 1748), lúc 43 tuổi [11] Thương cảm người bạn đời vắn số, Nguyễn Kiều viết bài văn tế, hết lời ca tụngvăn tài và đức hạnh của bà. Trong đó có câu: Đào chưa tươi đã khô Quế đang thơm đã rũ Rừng sâu bể rộng nàng hỡi đi đâu Ngọc nát châu chìm lòng tôi quặn nhớ... Sự nghiệp văn chương Theo Đoàn thị thực lục, lúc sinh thời bà thường xướng họa thơ với cha, với anhvà với chồng[12]. Song cho đến nay, về sáng tác, bà chỉ còn có tập truyện chữ Hán tênlà Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), và một ít thơ văn (gồmchữ Hán, chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây,nhưng trong đó có không ít sai lẫn [13]. Về bản dịch Chinh phụ ngâm (Chinh phụ ngâm khúc diễn âm) của bà, hiện nayvẫn chưa khẳng định là bản nào. Nhiều người cho đó là bản đang lưu hành rộng rãi,nhưng có ý kiến nói bản đó là của Phan Huy Ích[14], còn bản của nữ sĩ họ Đoàn làmột bản khác. Song theo GS. Nguyễn Lộc, thì một điều có thể khẳng định được làbản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm là bản dịch đầu tiên của tác phẩmnày[13]. Giai thoại Có lần Đoàn Doãn Luân thấy Đoàn Thị Điểm đang ngồi soi gương, bèn ra mộtvế rằng: Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (nghĩa là “soi gương vẽmày, một nét hóa thành hai nét”; song chữ điểm còn là tên bà Điểm, thành ra lại cónghĩa nữa là “một bà Điểm hóa hai bà Điểm”). Lúc ấy, ông Luân đang ngồi trên cầu ao rửa tay, bà liền đối rằng: Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (nghĩa là “ra ao ngắmtrăng, một vầng chuyển hóa hai vầng; song chữ luân còn là tên của ông Luân, thành ralại có nghĩa nữa là “một ông Luân hóa hai ông Luân)[15]. Ngoài ra, trong dân gian còn truyền tụng một số chuyện như “Da trắng vỗ bìbạch (ra vế đối cho Cống Quỳnh đối lại), Hổ thật thành hổ giấy (ra vế đối choTràng An tứ hổ đối lại), Trượng phu Bắc quốc đều từ đó mà ra (đáp lại câu đốicủa sứ thần Trung Quốc), v.v...[16]. Thông tin liên quan Trước đây, chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là Tiến sĩ Nguyễn Kiều được an tángtại khu vực Vườn Đào (thuộc phường Phú Thượng, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nộingày nay). Do yêu cầu giải phóng mặt bằng ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử việt nam danh nhân lịch sử danh nhân việt nam tiểu sử danh nhân tài liệu lịch sửGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 146 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 97 1 0 -
69 trang 81 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 59 0 0 -
11 trang 51 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 50 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 46 0 0 -
Nhật ký Anne Frank - Phần 11 T
6 trang 44 0 0 -
26 trang 42 0 0