Doanh nghiệp và Hành trình đi tìm Cấu trúc vốn tối ưu
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 109.93 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cấu trúc vốn và thành phần của nó. Cấu trúc vốn của doanh nghiệp được định nghĩa như là sự kết hợp giữa nợ (debt) và vốn cổ phần (equity) trong tổng nguồn vốn dài hạn mà doanh nghiệp có thể huy động được để tài trợ cho các dự án đầu tư. Ở đây cần làm rõ một chút về khái niệm các thành phần trong cấu trúc vốn. Vốn cổ phần (equity), bao gồm vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi và lợi nhuận giữ lại, được tìm thấy dễ dàng ở khoản mục vốnchủ sở...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nghiệp và Hành trình đi tìm Cấu trúc vốn tối ưu Doanh nghiệp và Hành trình đi tìm Cấu trúc vốn tối ưu Cấu trúc vốn và thành phần của nó. Cấu trúc vốn của doanh nghiệp được định nghĩa như là sự kết hợp giữa nợ (debt) và vốn cổ phần (equity) trong tổng nguồn vốn dài hạn mà doanh nghiệp có thể huy động được để tài trợ cho các dự án đầu tư. Ở đây cần làm rõ một chút về khái niệm các thành phần trong cấu trúc vốn. Vốn cổ phần (equity), bao gồm vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi và lợi nhuận giữ lại, được tìm thấy dễ dàng ở khoản mục vốnchủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán. Trong khi đó, khái niệm nợ (debt) có vẻ phức tạp hơn. Lý thuyết đầu tư thường đồng nhất nợ (debt) với khoản mục phải trả dài hạn (liabities). Tuy nhiên trong khoản mục phải trả (liabilities) lại cần phải phân biệt giữa phải trả tài chính (financing liabilities) như phải trả người bán dài hạn, vay và nợ dài hạn (bao gồm cả trái phiếu và trái phiếu chuyển đổi) và phải trả hoạt động (operating liabilities) như thuế thu nhập phải trả được hoãn lại, dự phòng trợ cấp mất việc làm và các khoản dự phòng phải trả dài hạn khác, quỹ lương hưu chưa đến thời hạn trả. Cả hai loại nợ phải trả này giống nhau ở chỗ, trong tương lai chúng đều khiến doanh nghiệp phải xuất hiện một dòng tiền ra. Nhưng điều khác biệt là với phải trả hoạt động (operating liabilities), doanh nghiệp không hề tốn một đồng chi phí nào cho các khoản vốn chiếm dụng hợp pháp này. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, song để cho vấn đề được đơn giản, tôi đi theo quan điểm của nhiều nhà phân tích, đồng nhất thành phần nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp với khoản mục vay và nợ dài hạn trên bảng cân đối kế toán. Do vậy thước đo cấu trúc vốn đơn giản nhất là tỷ số vay và nợ dài hạn trên tổng vốn dài hạn. Tại sao câu chuyện về cấu trúc vốn lại đáng quan tâm đến như vậy? Bất cứ doanh nghiệp nào khi vận hành cũng đều có một cấu trúc vốn nhất định dù họ có ý thức xây dựng nó hay không. Có thể là 100% vốn cổ phần hoặc là 30% nợ vay, 70% vốn cổ phần v.v. Có gì khác nhau giữa hai cấu trúc vốn này?… Vâng, sẽ là không có gì đáng bàn cãi nếu giá trị mang lại cho các cổ đông của hai cấu trúc vốn khác nhau này là như nhau. Tuy nhiên, vì tài trợ bằng nợ vay rẻ hơn vốn cổ phần, nên một doanh nghiệp có sử dụng nợ, theo lý thuyết đòn bẩy tài chính, sẽ có khả năng tạo được kết quả hoạt động tốt hơn doanh nghiệp 100% vốn cổ phần. Sở dĩ nói nợ vay rẻ hơn vốn cổ phần là vì : Thứ nhất, trái quyền (quyền của các trái chủ) được ưu tiên trước quyền của cổ đông nếu trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, do vậy trái chủ được xem là có mức độ rủi ro thấp hơn các cổ đông, tương ứng với sự an toàn này, họ sẽ nhận được một tỷ suất sinh lợi (chính là lãi suất vay nợ) thấp hơn tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần của các cổ đông. Thứ hai, chi phí lãi vay được khấu trừ trước thuế làm giảm mức thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp xuống, mang đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế. Để hiểu rõ hơn, chúng ta quan sát một ví dụ dưới đây : Xét doanh nghiệp A 100% vốn cổ phần, có 100 cổ phần thường đang lưu hành, giá mỗi cổ phần là 10$, giả sử P/E=10. Gía trị vốn hóa thị trường của doanh nghiệp sẽ bằng 1000$. Hằng năm doanh nghiệp có thể tạo ra thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) là 200$, thuế suất thuế TNDN là 50%, thu nhập mỗi cổ phần EPS = 1$. Nếu doanh nghiệp A thực hiện việc thay đổi tỷ lệ nợ trên tổng vốn từ 0 lên 20%. Tức là đã sử dụng cấu trúc vốn có đòn bẩy tài chính. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp tiến hành vay nợ 200$ với lãi suất vay là 10%, sau đó dùng lượng tiền mặt này mua lại 20 cổ phần của mình (200$/10$=20), bây giờ số lượng cổ phần thường của doanh nghiệp sụt giảm từ 100 xuống còn 80. Với 200$ vay nợ, doanh nghiệp phải trả lãi vay hằng năm là 20$. Với cấu trúc vốn mới, thu nhập trên mỗi cổ phần EPS là 1.13 cao hơn so với trường hợp cấu trúc vốn không có nợ mặc d ù với cùng mức EBIT. Không sử dụng nợ Có sử dụng nợ Thu nhập trước thuế và lãi vay( EBIT) 200$ 200$ Nợ vay 0 200$ Lãi vay, nợ*10% -0 -20$ Thu nhập trước thuế) =200$ =180$ Thuế thu nhập doanh nghiệp(50%) -100$ -90$ Thu nhập sau thuế =100$ =90$ Số lượng cổ phần 100 80 Thu nhập mỗi cổ phần 1$ 1.13$ Gía mỗi cổ phần (giả sử P/E =10) 10$ 10$ Gía trị vốn hóa thị trường 1000$ 800$ Tỷ số nợ trên vốn cổ phần 0 0.25 Tỷ số nợ trên tổng vốn dài hạn 0 0.20 Rõ ràng với cùng một thu nhập trước thuế và lãi vay( EBIT) như nhau, nhưng cấu trúc vốn có sử dụng nợ đã mang đến cho các cổ đông một mức EPS cao hơn. Vay nợ xem ra là quá tốt. Và thật sự là tốt nếu như doanh nghiệp có khả năng tạo ra được thu nhập từ nợ vay nhiều hơn chi phí lãi vay và các chi phí liên quan kèm theo( nếu có). Tuy nhiên, vay nợ đến một mức nào đó thì mỗi lượng nợ tăng thêm sẽ trở nên rủi ro hơn và doanh nghiệp sẽ đối mặt với những chi phí phát sinh khác như chi phí hao mòn doanh nghiệp, chi phí phá sản… Do đó doanh nghiệp nào mù quáng tin rằng vay nợ tốt và cứ thế vay nhiều đến mức mất khả năng chi trả lãi vay đúng hạn thì nguy cơ phá sản là không có gì phải bàn cãi. Tình hình sẽ tệ hại hơn nữa nếu doanh nghiệp nằm trong ngành có sự cạnh tranh gay gắt, khó khăn của bạn chính là thời cơ cho đối thủ chiếm lĩnh thị phần. Bởi vậy, trong tài chính, người ta nói rằng nợ là thí dụ tốt nhất của con dao hai lưỡi. Khi nào doanh nghiệp nên vay nợ và vay nợ bao nhiêu là hợp lý? Hành trình đi tìm lời giải cho bài toán này chính là hành trình doanh nghiệp đi tìm cấu trúc vốn tối ưu cho chính mình. Con đường đi xem ra cũng gian nan lắm thay! Hành trình đi tìm cấu trúc vốn tối ưu Cấu trúc vốn tối ưu được hiểu như một tỷ lệ lý tưởng giữa nợ dài hạn và tổng vốn dài hạn mà tạ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nghiệp và Hành trình đi tìm Cấu trúc vốn tối ưu Doanh nghiệp và Hành trình đi tìm Cấu trúc vốn tối ưu Cấu trúc vốn và thành phần của nó. Cấu trúc vốn của doanh nghiệp được định nghĩa như là sự kết hợp giữa nợ (debt) và vốn cổ phần (equity) trong tổng nguồn vốn dài hạn mà doanh nghiệp có thể huy động được để tài trợ cho các dự án đầu tư. Ở đây cần làm rõ một chút về khái niệm các thành phần trong cấu trúc vốn. Vốn cổ phần (equity), bao gồm vốn cổ phần thường, cổ phần ưu đãi và lợi nhuận giữ lại, được tìm thấy dễ dàng ở khoản mục vốnchủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán. Trong khi đó, khái niệm nợ (debt) có vẻ phức tạp hơn. Lý thuyết đầu tư thường đồng nhất nợ (debt) với khoản mục phải trả dài hạn (liabities). Tuy nhiên trong khoản mục phải trả (liabilities) lại cần phải phân biệt giữa phải trả tài chính (financing liabilities) như phải trả người bán dài hạn, vay và nợ dài hạn (bao gồm cả trái phiếu và trái phiếu chuyển đổi) và phải trả hoạt động (operating liabilities) như thuế thu nhập phải trả được hoãn lại, dự phòng trợ cấp mất việc làm và các khoản dự phòng phải trả dài hạn khác, quỹ lương hưu chưa đến thời hạn trả. Cả hai loại nợ phải trả này giống nhau ở chỗ, trong tương lai chúng đều khiến doanh nghiệp phải xuất hiện một dòng tiền ra. Nhưng điều khác biệt là với phải trả hoạt động (operating liabilities), doanh nghiệp không hề tốn một đồng chi phí nào cho các khoản vốn chiếm dụng hợp pháp này. Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi, song để cho vấn đề được đơn giản, tôi đi theo quan điểm của nhiều nhà phân tích, đồng nhất thành phần nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp với khoản mục vay và nợ dài hạn trên bảng cân đối kế toán. Do vậy thước đo cấu trúc vốn đơn giản nhất là tỷ số vay và nợ dài hạn trên tổng vốn dài hạn. Tại sao câu chuyện về cấu trúc vốn lại đáng quan tâm đến như vậy? Bất cứ doanh nghiệp nào khi vận hành cũng đều có một cấu trúc vốn nhất định dù họ có ý thức xây dựng nó hay không. Có thể là 100% vốn cổ phần hoặc là 30% nợ vay, 70% vốn cổ phần v.v. Có gì khác nhau giữa hai cấu trúc vốn này?… Vâng, sẽ là không có gì đáng bàn cãi nếu giá trị mang lại cho các cổ đông của hai cấu trúc vốn khác nhau này là như nhau. Tuy nhiên, vì tài trợ bằng nợ vay rẻ hơn vốn cổ phần, nên một doanh nghiệp có sử dụng nợ, theo lý thuyết đòn bẩy tài chính, sẽ có khả năng tạo được kết quả hoạt động tốt hơn doanh nghiệp 100% vốn cổ phần. Sở dĩ nói nợ vay rẻ hơn vốn cổ phần là vì : Thứ nhất, trái quyền (quyền của các trái chủ) được ưu tiên trước quyền của cổ đông nếu trường hợp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, do vậy trái chủ được xem là có mức độ rủi ro thấp hơn các cổ đông, tương ứng với sự an toàn này, họ sẽ nhận được một tỷ suất sinh lợi (chính là lãi suất vay nợ) thấp hơn tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần của các cổ đông. Thứ hai, chi phí lãi vay được khấu trừ trước thuế làm giảm mức thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp xuống, mang đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế. Để hiểu rõ hơn, chúng ta quan sát một ví dụ dưới đây : Xét doanh nghiệp A 100% vốn cổ phần, có 100 cổ phần thường đang lưu hành, giá mỗi cổ phần là 10$, giả sử P/E=10. Gía trị vốn hóa thị trường của doanh nghiệp sẽ bằng 1000$. Hằng năm doanh nghiệp có thể tạo ra thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT) là 200$, thuế suất thuế TNDN là 50%, thu nhập mỗi cổ phần EPS = 1$. Nếu doanh nghiệp A thực hiện việc thay đổi tỷ lệ nợ trên tổng vốn từ 0 lên 20%. Tức là đã sử dụng cấu trúc vốn có đòn bẩy tài chính. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp tiến hành vay nợ 200$ với lãi suất vay là 10%, sau đó dùng lượng tiền mặt này mua lại 20 cổ phần của mình (200$/10$=20), bây giờ số lượng cổ phần thường của doanh nghiệp sụt giảm từ 100 xuống còn 80. Với 200$ vay nợ, doanh nghiệp phải trả lãi vay hằng năm là 20$. Với cấu trúc vốn mới, thu nhập trên mỗi cổ phần EPS là 1.13 cao hơn so với trường hợp cấu trúc vốn không có nợ mặc d ù với cùng mức EBIT. Không sử dụng nợ Có sử dụng nợ Thu nhập trước thuế và lãi vay( EBIT) 200$ 200$ Nợ vay 0 200$ Lãi vay, nợ*10% -0 -20$ Thu nhập trước thuế) =200$ =180$ Thuế thu nhập doanh nghiệp(50%) -100$ -90$ Thu nhập sau thuế =100$ =90$ Số lượng cổ phần 100 80 Thu nhập mỗi cổ phần 1$ 1.13$ Gía mỗi cổ phần (giả sử P/E =10) 10$ 10$ Gía trị vốn hóa thị trường 1000$ 800$ Tỷ số nợ trên vốn cổ phần 0 0.25 Tỷ số nợ trên tổng vốn dài hạn 0 0.20 Rõ ràng với cùng một thu nhập trước thuế và lãi vay( EBIT) như nhau, nhưng cấu trúc vốn có sử dụng nợ đã mang đến cho các cổ đông một mức EPS cao hơn. Vay nợ xem ra là quá tốt. Và thật sự là tốt nếu như doanh nghiệp có khả năng tạo ra được thu nhập từ nợ vay nhiều hơn chi phí lãi vay và các chi phí liên quan kèm theo( nếu có). Tuy nhiên, vay nợ đến một mức nào đó thì mỗi lượng nợ tăng thêm sẽ trở nên rủi ro hơn và doanh nghiệp sẽ đối mặt với những chi phí phát sinh khác như chi phí hao mòn doanh nghiệp, chi phí phá sản… Do đó doanh nghiệp nào mù quáng tin rằng vay nợ tốt và cứ thế vay nhiều đến mức mất khả năng chi trả lãi vay đúng hạn thì nguy cơ phá sản là không có gì phải bàn cãi. Tình hình sẽ tệ hại hơn nữa nếu doanh nghiệp nằm trong ngành có sự cạnh tranh gay gắt, khó khăn của bạn chính là thời cơ cho đối thủ chiếm lĩnh thị phần. Bởi vậy, trong tài chính, người ta nói rằng nợ là thí dụ tốt nhất của con dao hai lưỡi. Khi nào doanh nghiệp nên vay nợ và vay nợ bao nhiêu là hợp lý? Hành trình đi tìm lời giải cho bài toán này chính là hành trình doanh nghiệp đi tìm cấu trúc vốn tối ưu cho chính mình. Con đường đi xem ra cũng gian nan lắm thay! Hành trình đi tìm cấu trúc vốn tối ưu Cấu trúc vốn tối ưu được hiểu như một tỷ lệ lý tưởng giữa nợ dài hạn và tổng vốn dài hạn mà tạ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Cấu trúc vốn tối ưu tài chính tài liệu về tài chính cấu trúc vốn vốn doanh nghiệp chuyên ngành tài chínhGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 176 0 0
-
HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KẾ TOÁN- CHUẨN MỰC SỐ 2- HÀNG TỒN KHO
6 trang 121 0 0 -
Đề tài: Thực trạng thanh toán tiền măt ở nước ta
9 trang 111 0 0 -
Phân tích cơ bản - vàng và ngoại tệ
42 trang 88 0 0 -
Kế toán thực chứng: Hướng đúng phát triển ngành kế toán Việt Nam?
11 trang 87 0 0 -
9 trang 81 0 0
-
Không ưu đãi thuế, quỹ mở phải… khép
3 trang 78 0 0 -
Chính thức công bố kế hoạch cải cách hệ thống thuế
2 trang 74 0 0 -
3 trang 70 0 0
-
Phòng ngừa rủi ro trong Ngân hàng thương mại
5 trang 69 0 0