Doanh nhân lịch sử: Đào Duy Từ (Nhâm Thân 1572 – Giáp Tuất 1634)
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 117.53 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Danh thần thời chúa Nguyễn lập nghiệp mở mang bờ cõi về phía Nam, quê làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ông thông kinh sử, tinh thâm lí số và binh thư đồ trận. Nhưng vì thân phụ ông là Đào Tá Hán xuất thân là quản giáp trong nghề ca hát mà luật lệ thì nghiêm cấm không cho con nhà xướng ca ra thi cử, nên ông không tiến thân được. Bất đắc chí ông bỏ Đông Kinh (Hà Nội) lần vào miền Nam, định theo phò chúa Nguyễn. Trong lúc bơ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nhân lịch sử: Đào Duy Từ (Nhâm Thân 1572 – Giáp Tuất 1634) Đào Duy Từ (Nhâm Thân 1572 – Giáp Tuất 1634)Danh thần thời chúa Nguyễn lập nghiệp mở mang bờ c õi về phía Nam, quêlàng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.Ông thông kinh sử, tinh thâm lí số và binh thư đồ trận. Nhưng vì thân phụ ônglà Đào Tá Hán xuất thân là quản giáp trong nghề ca hát mà luật lệ thì nghiêmcấm không cho con nhà xướng ca ra thi cử, nên ông không tiến thân được. Bấtđắc chí ông bỏ Đông Kinh (Hà Nội) lần vào miền Nam, định theo phò chúaNguyễn.Trong lúc bơ vơ nơi phủ Hoài Nhơn (nay là phủ Bồng Sơn) tỉnh Bình Định,ông tạm khuất thân ở ẩn, chăn trâu cho nhà giàu Chúc Trịnh Long ở thôn TòngChâu.Tăm tiếng ông dần dần được sĩ phu biết đến, Khán lí Trần Đức H òa ở Quinhơn mến tài, gả con gái cho ông và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn PhúcNguyên.Được chúa Sãi trọng dụng phong là Nội tán, ông tận tụy giúp chúa Nguyễn vềquân sự, chính trị và văn hóa, đương đầu với chúa Trịnh đến thắng lợi.Năm Canh Ngọ 1630, ông xướng xuất việc đắp lũy Tr ường Dục ở huyệnPhong Lộc, tỉnh Quảng Bình.Qua năm sau (Tân vị 1631), ông lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa bể Nhật Lệđến núi Đâu Mâu (ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình), cao một trượng, dài hơn 200trượng (tục gọi là lũy Thầy. Đến đời Thiệu Trị mang t ên là Định Bắc trườngthành)Năm Giáp Tuất 1634, ngày 17-10 ông mất thọ 62 tuổi, được phong tặng hàmTán trị dực vận công thần, Kim tử vinh lộc đại phu, Đại lí tự khanh, t ước LộcKhê Hầu. Đến triều Minh Mạng, truy phong t ước Hoằng Quốc Công.Đào Duy Từ còn để lại một bộ binh thư: Hổ trướng khu cơ và hai khúc ngâm:Ngọa Long c ương văn, Tư Dung văn.Người sau khen ngợi ông:Kim Thành thiết lũy sơn hà trángNghĩa sĩ trung thần sự nghiệp l ưu.Dịch:Thành đồng lũy sắt non sông vữngTớ nghĩa tôi trung sự nghiệp c òn.Và:Bốt tàm danh sĩ hi Gia CátDịch:Lộc Khê sánh được tài Gia Cát /Tùng Thiện Vương ca ngợi:Nhất tự hải sơn Sư lũy tráng,Lộc Khê di liệt đáo, kim trường.DịchTừ có lũy Thầy non bể vữngLộc Khê công nghiệp để lâu dài.Khúc ngâm Ngọa long cương dài 136 câu lục bát, từ lâu nay đã được phổ biếnrộng trong lịch sử văn học.Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất của n ước ta vào thời cận đại.Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử ViệtNam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 153 -154.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nhân lịch sử: Đào Duy Từ (Nhâm Thân 1572 – Giáp Tuất 1634) Đào Duy Từ (Nhâm Thân 1572 – Giáp Tuất 1634)Danh thần thời chúa Nguyễn lập nghiệp mở mang bờ c õi về phía Nam, quêlàng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.Ông thông kinh sử, tinh thâm lí số và binh thư đồ trận. Nhưng vì thân phụ ônglà Đào Tá Hán xuất thân là quản giáp trong nghề ca hát mà luật lệ thì nghiêmcấm không cho con nhà xướng ca ra thi cử, nên ông không tiến thân được. Bấtđắc chí ông bỏ Đông Kinh (Hà Nội) lần vào miền Nam, định theo phò chúaNguyễn.Trong lúc bơ vơ nơi phủ Hoài Nhơn (nay là phủ Bồng Sơn) tỉnh Bình Định,ông tạm khuất thân ở ẩn, chăn trâu cho nhà giàu Chúc Trịnh Long ở thôn TòngChâu.Tăm tiếng ông dần dần được sĩ phu biết đến, Khán lí Trần Đức H òa ở Quinhơn mến tài, gả con gái cho ông và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn PhúcNguyên.Được chúa Sãi trọng dụng phong là Nội tán, ông tận tụy giúp chúa Nguyễn vềquân sự, chính trị và văn hóa, đương đầu với chúa Trịnh đến thắng lợi.Năm Canh Ngọ 1630, ông xướng xuất việc đắp lũy Tr ường Dục ở huyệnPhong Lộc, tỉnh Quảng Bình.Qua năm sau (Tân vị 1631), ông lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa bể Nhật Lệđến núi Đâu Mâu (ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình), cao một trượng, dài hơn 200trượng (tục gọi là lũy Thầy. Đến đời Thiệu Trị mang t ên là Định Bắc trườngthành)Năm Giáp Tuất 1634, ngày 17-10 ông mất thọ 62 tuổi, được phong tặng hàmTán trị dực vận công thần, Kim tử vinh lộc đại phu, Đại lí tự khanh, t ước LộcKhê Hầu. Đến triều Minh Mạng, truy phong t ước Hoằng Quốc Công.Đào Duy Từ còn để lại một bộ binh thư: Hổ trướng khu cơ và hai khúc ngâm:Ngọa Long c ương văn, Tư Dung văn.Người sau khen ngợi ông:Kim Thành thiết lũy sơn hà trángNghĩa sĩ trung thần sự nghiệp l ưu.Dịch:Thành đồng lũy sắt non sông vữngTớ nghĩa tôi trung sự nghiệp c òn.Và:Bốt tàm danh sĩ hi Gia CátDịch:Lộc Khê sánh được tài Gia Cát /Tùng Thiện Vương ca ngợi:Nhất tự hải sơn Sư lũy tráng,Lộc Khê di liệt đáo, kim trường.DịchTừ có lũy Thầy non bể vữngLộc Khê công nghiệp để lâu dài.Khúc ngâm Ngọa long cương dài 136 câu lục bát, từ lâu nay đã được phổ biếnrộng trong lịch sử văn học.Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất của n ước ta vào thời cận đại.Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử ViệtNam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 153 -154.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Danh nhân văn hóa danh nhân lịch sử nhân vật lịch sử lịch sử việt namGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 145 0 0 -
Nội dung và ý nghĩa quan điểm về đạo làm người của Nguyễn Bỉnh Khiêm
7 trang 86 1 0 -
69 trang 73 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 57 0 0 -
11 trang 48 0 0
-
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 45 0 0 -
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 44 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0