document (68)Động lực nào cho phát triển khoa học và công nghệ - nhìn từ góc độ ngành nông nghiệp
Số trang: 12
Loại file: pdf
Dung lượng: 233.80 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này chia sẻ một số giải pháp mang tính động lực cho phát triển Khoa học và công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp. Với những đóng góp của khoa học và công nghệ (KH&CN) vào tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian qua, KH&CN được coi là khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
document (68)Động lực nào cho phát triển khoa học và công nghệ - nhìn từ góc độ ngành nông nghiệp JSTPM Tập 3, Số 2, 2014 47 ĐỘNG LỰC NÀO CHO PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGÀNH NÔNG NGHIỆP ThS. Trần Ngọc Hoa Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội Tóm tắt: Với những đóng góp của khoa học và công nghệ (KH&CN) vào tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian qua, KH&CN được coi là khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù có những tăng trưởng vượt bậc trong hơn 30 năm qua nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa phát triển theo đúng với tiềm năng và lợi thế. Vậy làm gì để KH&CN phát triển, đóng góp nhiều hơn nữa cho nông nghiệp Việt Nam, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được chia sẻ một số giải pháp mang tính động lực cho phát triển KH&CN trong lĩnh vực này. Từ khóa: KH&CN trong nông nghiệp; Động lực phát triển. Mã số: 14051601 1. Thực trạng khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Việt Nam 1.1. Một số thành tựu nổi bật của khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Trong hơn 50 năm qua, KH&CN góp phần không nhỏ trong tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam, không những bảo đảm tiêu dùng trong nước mà còn dư để xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 28,74 tỷ USD, xuất siêu khoảng 10 tỷ USD (năm 2013), đã có nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD1. Ước tính trong giai đoạn 2001-2010, KH&CN đã đóng góp vào tăng trưởng của ngành khoảng 35%, làm tăng sức cạnh tranh và góp phần gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp từ 30 - 50% [3]. Cụ thể: Trong lĩnh vực trồng trọt, đã có nhiều giống cây trồng, vật nuôi được chọn tạo, ứng dụng vào sản xuất cho năng suất cao như: giống lúa cho năng suất 6,5tấn/ha/vụ, giống ngô năng suất đạt 12 tấn/ha, giống xoài cho năng suất đạt 24 tấn/ha. Lĩnh vực chăn nuôi cũng đã tạo ra nhiều giống mới có năng suất, chất lượng tốt như: giống bò sữa Holstein Friesian cho năng suất từ 6.5001 Gồm: gạo (3 tỷ USD), cao su (2,5 tỷ USD), cà phê (2,7 tỷ USD), thủy sản (6,7 tỷ USD), gỗ và sản phẩm gỗ (5,5 tỷ USD)… Nguồn: Http:/chinhphu.vn. Báo cáo của Chính phủ tình hình kinh tế - xã hội năm 2013. 48 Động lực nào cho phát triển khoa học và công nghệ… 7.600 kg sữa/chu kỳ, giống bò thịt Holstein Friesian cho năng suất cao hơn bò trong nước từ 1,5-2 lần; các nghiên cứu về quy trình công nghệ mới trong chăn nuôi cũng góp phần nâng cao năng suất vật nuôi từ 7-10%. Lĩnh vực lâm nghiệp cũng có nhiều kết quả nổi trội, đặc biệt trong công tác giống, trên 90% giống cây trồng lâm nghiệp đang sử dụng ở Việt Nam có nguồn gốc từ các kết quả nghiên cứu khoa học. Một số giống keo lai có năng suất, chất lượng cao như BV10, BV16, BV32 được nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Australia nhập về để phục vụ việc chọn tạo giống và trồng rừng của họ. KH&CN trong nuôi trồng thủy sản cũng có bước tiến vượt bậc, đã tạo ra công nghệ sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm của hơn 30 đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao, góp phần đa dạng hóa sản phẩm thuỷ sản2; chọn tạo được nhiều giống có chất lượng di truyền tốt, sạch bệnh, giống có tốc độ tăng trưởng cao phục vụ sản xuất. Các nghiên cứu về ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong nông nghiệp cũng được quan tâm đầu tư, tập trung nghiên cứu như: công nghệ gen, công nghệ chỉ thị phân tử, công nghệ tế bào trong chọn tạo và nhân nhanh giống cây trồng, chọn tạo các giống vật nuôi năng suất, chất lượng; ứng dụng công nghệ vi sinh để nghiên cứu sản xuất các chế phẩm sinh học, vi sinh tái tổ hợp trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, phân bón, cải tạo đất, xử lý nước thải, phế phụ phẩm nông nghiệp... Nhiều kết quả nghiên cứu công nghệ cao, nghiên cứu nội địa hóa công nghệ cao nhập khẩu từ nước ngoài đã được chuyển giao, ứng dụng trong sản xuất, tạo ra giá trị cao trên đơn vị diện tích3, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, tăng năng suất, chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm trong nước. 1.2. Một số bất cập, vướng mắc 1.2.1. Kinh phí đầu tư cho KH&CN trong nông nghiệp còn quá thấp so với yêu cầu, đầu tư còn dàn trải, chưa tạo đột phá về công nghệ. Kinh phí cho nghiên cứu KH&CN trong nông nghiệp của cả nước cũng chỉ ở mức 1.500 tỷ VNĐ/năm (khoảng 70 triệu USD/năm); các nhiệm vụ cấp địa phương (63 tỉnh, thành phố) cũng chỉ đạt khoảng 30 triệu USD/năm. Tính bình quân, mỗi nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước cũng chỉ khoảng 3,8 - 4,0 tỷ VNĐ; các nhiệm vụ cấp bộ, cấp tỉnh, thành phố còn thấp hơn nhiều. Mặc 2 như một số loại cá Song, cá Hồi, các Tầm, cá Lăng, cá Chầy đất, cá Anh vũ, cá Chiên, cá Chạch sông, cá Đối mục, cá Còm, cá Thát lát, cá Lăng nha, cá Chẽm, cá Hồng Mỹ, cá Bống bớp, cá Chình hoa, tu hài, hàu Thái Bình Dương, cua biển, ốc hương, hải sâm, nghêu,… 3 Doanh thu của Tập đoàn TH - TrueMilk năm 2012 đạt trên 2000 tỉ VNĐ, dự kiến năm 2015 đạt 15.000 tỉ VNĐ và năm 2017 là 23.000 tỉ VNĐ, một hécta đất canh tác do TrueMilk sử dụng đã đem lại giá trị 500-1.500 triệu VNĐ so với chỉ 70-80 triệu VNĐ trước đây; Agrivina - Dalat Hasfarm® được thành lập cuối những năm 1990, đến năm 2010 Dalat Hasfarm® đã đạt con số gần 100 triệu cành hoa các loại, trong đó 70% sản lượng được xuất khẩu đến các thị trường Nhật Bản, Úc, Singapore, Đài Loan, Indonesia. JSTPM Tập 3, Số 2, 2014 49 dù đầu tư công cho nông nghiệp tăng nhưng tính chung toàn xã hội thì tỷ trọng đầu tư nông nghiệp luôn thấp hơn tỷ trọng GDP ngành này đem lại và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực4. Hiện tại, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn chỉ đáp ứng khoảng 55-60% [2] so với nhu cầu. Từ năm 2005 đến nay, mặc dù GDP ngành nông nghiệp vẫn chiếm xấp xỉ 20% nhưng tỷ trọng đầu tư cho ngành này giảm dần chỉ còn 5,98% (năm 2011); vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào ngành nông nghiệp cũng rất thấp (riêng năm 2012 chỉ chiếm 0,61% tổng vốn đầu tư nước ngoài). Tỷ lệ đầu tư ngoài ngân sách cho nông nghiệp còn thấp, chưa có giải pháp hữu hiệu để huy động được các nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp và toàn xã hội cho khu vực này. Chính sách khuyến ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
document (68)Động lực nào cho phát triển khoa học và công nghệ - nhìn từ góc độ ngành nông nghiệp JSTPM Tập 3, Số 2, 2014 47 ĐỘNG LỰC NÀO CHO PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGÀNH NÔNG NGHIỆP ThS. Trần Ngọc Hoa Vụ Khoa học công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội Tóm tắt: Với những đóng góp của khoa học và công nghệ (KH&CN) vào tăng trưởng nông nghiệp trong thời gian qua, KH&CN được coi là khâu đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù có những tăng trưởng vượt bậc trong hơn 30 năm qua nhưng nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa phát triển theo đúng với tiềm năng và lợi thế. Vậy làm gì để KH&CN phát triển, đóng góp nhiều hơn nữa cho nông nghiệp Việt Nam, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được chia sẻ một số giải pháp mang tính động lực cho phát triển KH&CN trong lĩnh vực này. Từ khóa: KH&CN trong nông nghiệp; Động lực phát triển. Mã số: 14051601 1. Thực trạng khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Việt Nam 1.1. Một số thành tựu nổi bật của khoa học và công nghệ trong nông nghiệp Trong hơn 50 năm qua, KH&CN góp phần không nhỏ trong tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam, không những bảo đảm tiêu dùng trong nước mà còn dư để xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 28,74 tỷ USD, xuất siêu khoảng 10 tỷ USD (năm 2013), đã có nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD1. Ước tính trong giai đoạn 2001-2010, KH&CN đã đóng góp vào tăng trưởng của ngành khoảng 35%, làm tăng sức cạnh tranh và góp phần gia tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp từ 30 - 50% [3]. Cụ thể: Trong lĩnh vực trồng trọt, đã có nhiều giống cây trồng, vật nuôi được chọn tạo, ứng dụng vào sản xuất cho năng suất cao như: giống lúa cho năng suất 6,5tấn/ha/vụ, giống ngô năng suất đạt 12 tấn/ha, giống xoài cho năng suất đạt 24 tấn/ha. Lĩnh vực chăn nuôi cũng đã tạo ra nhiều giống mới có năng suất, chất lượng tốt như: giống bò sữa Holstein Friesian cho năng suất từ 6.5001 Gồm: gạo (3 tỷ USD), cao su (2,5 tỷ USD), cà phê (2,7 tỷ USD), thủy sản (6,7 tỷ USD), gỗ và sản phẩm gỗ (5,5 tỷ USD)… Nguồn: Http:/chinhphu.vn. Báo cáo của Chính phủ tình hình kinh tế - xã hội năm 2013. 48 Động lực nào cho phát triển khoa học và công nghệ… 7.600 kg sữa/chu kỳ, giống bò thịt Holstein Friesian cho năng suất cao hơn bò trong nước từ 1,5-2 lần; các nghiên cứu về quy trình công nghệ mới trong chăn nuôi cũng góp phần nâng cao năng suất vật nuôi từ 7-10%. Lĩnh vực lâm nghiệp cũng có nhiều kết quả nổi trội, đặc biệt trong công tác giống, trên 90% giống cây trồng lâm nghiệp đang sử dụng ở Việt Nam có nguồn gốc từ các kết quả nghiên cứu khoa học. Một số giống keo lai có năng suất, chất lượng cao như BV10, BV16, BV32 được nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Australia nhập về để phục vụ việc chọn tạo giống và trồng rừng của họ. KH&CN trong nuôi trồng thủy sản cũng có bước tiến vượt bậc, đã tạo ra công nghệ sản xuất giống nhân tạo và nuôi thương phẩm của hơn 30 đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế cao, góp phần đa dạng hóa sản phẩm thuỷ sản2; chọn tạo được nhiều giống có chất lượng di truyền tốt, sạch bệnh, giống có tốc độ tăng trưởng cao phục vụ sản xuất. Các nghiên cứu về ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong nông nghiệp cũng được quan tâm đầu tư, tập trung nghiên cứu như: công nghệ gen, công nghệ chỉ thị phân tử, công nghệ tế bào trong chọn tạo và nhân nhanh giống cây trồng, chọn tạo các giống vật nuôi năng suất, chất lượng; ứng dụng công nghệ vi sinh để nghiên cứu sản xuất các chế phẩm sinh học, vi sinh tái tổ hợp trong lĩnh vực bảo vệ thực vật, phân bón, cải tạo đất, xử lý nước thải, phế phụ phẩm nông nghiệp... Nhiều kết quả nghiên cứu công nghệ cao, nghiên cứu nội địa hóa công nghệ cao nhập khẩu từ nước ngoài đã được chuyển giao, ứng dụng trong sản xuất, tạo ra giá trị cao trên đơn vị diện tích3, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, tăng năng suất, chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm trong nước. 1.2. Một số bất cập, vướng mắc 1.2.1. Kinh phí đầu tư cho KH&CN trong nông nghiệp còn quá thấp so với yêu cầu, đầu tư còn dàn trải, chưa tạo đột phá về công nghệ. Kinh phí cho nghiên cứu KH&CN trong nông nghiệp của cả nước cũng chỉ ở mức 1.500 tỷ VNĐ/năm (khoảng 70 triệu USD/năm); các nhiệm vụ cấp địa phương (63 tỉnh, thành phố) cũng chỉ đạt khoảng 30 triệu USD/năm. Tính bình quân, mỗi nhiệm vụ KH&CN cấp Nhà nước cũng chỉ khoảng 3,8 - 4,0 tỷ VNĐ; các nhiệm vụ cấp bộ, cấp tỉnh, thành phố còn thấp hơn nhiều. Mặc 2 như một số loại cá Song, cá Hồi, các Tầm, cá Lăng, cá Chầy đất, cá Anh vũ, cá Chiên, cá Chạch sông, cá Đối mục, cá Còm, cá Thát lát, cá Lăng nha, cá Chẽm, cá Hồng Mỹ, cá Bống bớp, cá Chình hoa, tu hài, hàu Thái Bình Dương, cua biển, ốc hương, hải sâm, nghêu,… 3 Doanh thu của Tập đoàn TH - TrueMilk năm 2012 đạt trên 2000 tỉ VNĐ, dự kiến năm 2015 đạt 15.000 tỉ VNĐ và năm 2017 là 23.000 tỉ VNĐ, một hécta đất canh tác do TrueMilk sử dụng đã đem lại giá trị 500-1.500 triệu VNĐ so với chỉ 70-80 triệu VNĐ trước đây; Agrivina - Dalat Hasfarm® được thành lập cuối những năm 1990, đến năm 2010 Dalat Hasfarm® đã đạt con số gần 100 triệu cành hoa các loại, trong đó 70% sản lượng được xuất khẩu đến các thị trường Nhật Bản, Úc, Singapore, Đài Loan, Indonesia. JSTPM Tập 3, Số 2, 2014 49 dù đầu tư công cho nông nghiệp tăng nhưng tính chung toàn xã hội thì tỷ trọng đầu tư nông nghiệp luôn thấp hơn tỷ trọng GDP ngành này đem lại và thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực4. Hiện tại, nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn chỉ đáp ứng khoảng 55-60% [2] so với nhu cầu. Từ năm 2005 đến nay, mặc dù GDP ngành nông nghiệp vẫn chiếm xấp xỉ 20% nhưng tỷ trọng đầu tư cho ngành này giảm dần chỉ còn 5,98% (năm 2011); vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào ngành nông nghiệp cũng rất thấp (riêng năm 2012 chỉ chiếm 0,61% tổng vốn đầu tư nước ngoài). Tỷ lệ đầu tư ngoài ngân sách cho nông nghiệp còn thấp, chưa có giải pháp hữu hiệu để huy động được các nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp và toàn xã hội cho khu vực này. Chính sách khuyến ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí khoa học Tạp chí Công nghệ Quản lý công nghệ Động lực phát triển công nghệ Khoa học và công nghệ trong nông nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 295 0 0
-
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 270 0 0 -
5 trang 233 0 0
-
10 trang 211 0 0
-
Quản lý tài sản cố định trong doanh nghiệp
7 trang 208 0 0 -
6 trang 205 0 0
-
8 trang 204 0 0
-
Khảo sát, đánh giá một số thuật toán xử lý tương tranh cập nhật dữ liệu trong các hệ phân tán
7 trang 202 0 0 -
Khách hàng và những vấn đề đặt ra trong câu chuyện số hóa doanh nghiệp
12 trang 200 0 0 -
9 trang 167 0 0