Đổi mới tư duy trong phát triển các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam
Số trang: 16
Loại file: pdf
Dung lượng: 7.05 MB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết phân tích quá trình phát triển hệ thống doanh nghiệp, xác định xu hướng vận động của các loại hình doanh nghiệp và đề xuất một số khuyến nghị đổi mới tư duy để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp ở nước ta.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đổi mới tư duy trong phát triển các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam ĐỔI MỚI TƢ DUY TRONG PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn Trường Đại học Kinh tế quốc dân Tóm tắt Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển có hiệu quả và bền vững của nền kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển hiệu quả và bền vững của hệ thống doanh nghiệp. Đồng thời, sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chất lượng thể chế. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các loại hình doanh nghiệp ở nước ta đã được phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp cũng bộc lộ nhiều yếu kém bất cập, trong đó nổi bật là năng lực cạnh tranh còn thấp kém. Để tranh thủ cơ hội và vượt qua thách thức của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề từ bản thân các doanh nghiệp và từ các cơ quan quản lý nhà nước. Bài viết phân tích quá trình phát triển hệ thống doanh nghiệp, xác định xu hướng vận động của các loại hình doanh nghiệp và đề xuất một số khuyến nghị đổi mới tư duy để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp ở nước ta. Từ khóa: Luật Doanh nghiệp, Loại hình doanh nghiệp, Thể chế kinh tế thị trường. Giới thiệu Thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, ngày 21/12/1990, Quốc hội khóa 8 đã thông qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Các luật này quy định về tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân). Sau gần 9 năm thực hiện, ngày 12/06/1999, Quốc hội khóa 9 đã thông qua Luật Doanh nghiệp thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Ngoài quy định về các loại hình doanh nghiệp nêu trên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 còn bổ sung loại hình công ty hợp danh và quy định loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức. 13 Cùng với việc ban hành đạo luật về các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, ngày 20/04/1995, Quốc hội khóa 9 đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước. Luật này quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của Nhà nước đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 26/11/2003, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước mới thay thế cho Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Luật này quy định 3 mô hình quản lý các doanh nghiệp nhà nước: công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước và công ty cổ phần nhà nước. Việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) được quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài do Quốc hội khóa 9 thông qua ngày 12/11/1996. Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và hướng tới xóa bỏ sự phân biệt giữa doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế ngoài nhà nước, ngày 29/11/2005, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Doanh nghiệp (2005). Đạo luật này đã thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp FDI tại Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Ngày 26/11/2014, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo luật này, các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; nhóm công ty. Việc bổ sung và sửa đổi các đạo luật về doanh nghiệp để hình thành một đạo luật chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp đã tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc phát triển mạnh mẽ hệ thống doanh nghiệp ở nước ta, từ đó, huy động được rộng rãi các các nguồn lực trong xã hội vào đầu tư phát triển và đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, những yếu kém của hệ thống doanh nghiệp và thực thi Luật Doanh nghiệp cũng bộc lộ ngày càng rõ. Về phía các doanh nghiệp, tuy có sự tăng lên về số lượng, nhưng nguồn lực tài chính, trình độ trang bị công nghệ, chất lượng tổ chức quản trị điều hành, hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp kém. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, việc đổi mới hoạt động theo tinh thần “đồng hành cùng doanh nghiệp, phục vụ doanh nghiệp” còn chậm, chưa tạo lập được môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, chưa tháo gỡ được những khó khăn cản trở hoạt động đầu tư – kinh doanh… 14 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra những cơ hội to lớn và đặt ra những thách thức gay gắt với nền kinh tế nước ta nói chung, hệ thống doanh nghiệp nói riêng. Để phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề trên nền tảng đổi mới tư duy về phát triển và quản lý quá trình phát triển. Dưới đây xin trình bày khái quát tình hình phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nước ta và một số khuyến nghị về đổi mới tư duy nhằm thúc đẩy phát triển có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp trong bối cảnh phát triển mới. Sự phát triển các loại hình doanh nghiệp trong giai đoạn 2000 - 2016 Trong quá trình thực hiện chủ trương về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, hệ thống doanh nghiệp ở nước ta đã được phát triển mạnh mẽ với các loại hình khác nhau (Bảng 1). Bảng 1: Số lƣợng và tỷ trọng các loại hình doanh nghiệp ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đổi mới tư duy trong phát triển các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam ĐỔI MỚI TƢ DUY TRONG PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn Trường Đại học Kinh tế quốc dân Tóm tắt Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển có hiệu quả và bền vững của nền kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển hiệu quả và bền vững của hệ thống doanh nghiệp. Đồng thời, sự phát triển của hệ thống doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của chất lượng thể chế. Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các loại hình doanh nghiệp ở nước ta đã được phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, các doanh nghiệp cũng bộc lộ nhiều yếu kém bất cập, trong đó nổi bật là năng lực cạnh tranh còn thấp kém. Để tranh thủ cơ hội và vượt qua thách thức của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề từ bản thân các doanh nghiệp và từ các cơ quan quản lý nhà nước. Bài viết phân tích quá trình phát triển hệ thống doanh nghiệp, xác định xu hướng vận động của các loại hình doanh nghiệp và đề xuất một số khuyến nghị đổi mới tư duy để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp ở nước ta. Từ khóa: Luật Doanh nghiệp, Loại hình doanh nghiệp, Thể chế kinh tế thị trường. Giới thiệu Thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương của Đảng về phát triển các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế, ngày 21/12/1990, Quốc hội khóa 8 đã thông qua Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Các luật này quy định về tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân). Sau gần 9 năm thực hiện, ngày 12/06/1999, Quốc hội khóa 9 đã thông qua Luật Doanh nghiệp thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Ngoài quy định về các loại hình doanh nghiệp nêu trên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 còn bổ sung loại hình công ty hợp danh và quy định loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức. 13 Cùng với việc ban hành đạo luật về các loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, ngày 20/04/1995, Quốc hội khóa 9 đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước. Luật này quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của Nhà nước đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 26/11/2003, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Doanh nghiệp nhà nước mới thay thế cho Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Luật này quy định 3 mô hình quản lý các doanh nghiệp nhà nước: công ty nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước và công ty cổ phần nhà nước. Việc tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) được quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài do Quốc hội khóa 9 thông qua ngày 12/11/1996. Nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và hướng tới xóa bỏ sự phân biệt giữa doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế ngoài nhà nước, ngày 29/11/2005, Quốc hội khóa 11 đã thông qua Luật Doanh nghiệp (2005). Đạo luật này đã thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 và các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp FDI tại Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Ngày 26/11/2014, Quốc hội khóa 13 đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 2005. Theo luật này, các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp tư nhân; nhóm công ty. Việc bổ sung và sửa đổi các đạo luật về doanh nghiệp để hình thành một đạo luật chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp đã tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc phát triển mạnh mẽ hệ thống doanh nghiệp ở nước ta, từ đó, huy động được rộng rãi các các nguồn lực trong xã hội vào đầu tư phát triển và đóng góp to lớn vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, những yếu kém của hệ thống doanh nghiệp và thực thi Luật Doanh nghiệp cũng bộc lộ ngày càng rõ. Về phía các doanh nghiệp, tuy có sự tăng lên về số lượng, nhưng nguồn lực tài chính, trình độ trang bị công nghệ, chất lượng tổ chức quản trị điều hành, hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp kém. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, việc đổi mới hoạt động theo tinh thần “đồng hành cùng doanh nghiệp, phục vụ doanh nghiệp” còn chậm, chưa tạo lập được môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, chưa tháo gỡ được những khó khăn cản trở hoạt động đầu tư – kinh doanh… 14 Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra những cơ hội to lớn và đặt ra những thách thức gay gắt với nền kinh tế nước ta nói chung, hệ thống doanh nghiệp nói riêng. Để phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề trên nền tảng đổi mới tư duy về phát triển và quản lý quá trình phát triển. Dưới đây xin trình bày khái quát tình hình phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nước ta và một số khuyến nghị về đổi mới tư duy nhằm thúc đẩy phát triển có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp trong bối cảnh phát triển mới. Sự phát triển các loại hình doanh nghiệp trong giai đoạn 2000 - 2016 Trong quá trình thực hiện chủ trương về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, hệ thống doanh nghiệp ở nước ta đã được phát triển mạnh mẽ với các loại hình khác nhau (Bảng 1). Bảng 1: Số lƣợng và tỷ trọng các loại hình doanh nghiệp ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đổi mới tư duy trong doanh nghiệp Phát triển loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam Phát triển loại hình doanh nghiệp Doanh nghiệp Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam thông qua bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI)
8 trang 316 0 0 -
Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng thế hệ Z thành phố Hà Nội
12 trang 213 1 0 -
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiêp: Vấn đề đặt ra từ thực tế ở Việt Nam
6 trang 182 0 0 -
97 trang 161 0 0
-
Xu hướng chuyển đổi báo cáo tài chính Việt Nam theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
5 trang 137 0 0 -
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp Việt Nam
12 trang 118 0 0 -
95 trang 100 0 0
-
17 trang 95 0 0
-
17 trang 90 0 0
-
5 trang 87 0 0