Xuất Xứ: Dược Phẩm Hóa Nghĩa Bản. Tên Khác: Bạch thược dược (Thảo Kinh Tập Chú), Dư dung, Kỳ tích, Giải thương (Ngô Phổ Bản Thảo), Kim thược dược (Bản Thảo Đồ Kinh), Mộc bản thảo, Tương ly (Bản Thảo Cương Mục), Lê thực, Đỉnh (Biệt Lục), Ngưu đỉnh, Khởi ly, Thổ cẩm, Quan phương, Cận khách, Diễm hữu, Hắc tân diêng, Điện xuân khách, Cẩm túc căn (Hòa Hán Dược Khảo), Một cốt hoa (Hồ Bản Thảo), Lam vĩ xuân (Thanh Dị Lục), Sao Bạch thược, Khuê Bạch thược, Hàng Bạch thược, Tiêu Bạch thược, Toan Bạch thược...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
DƯỢC HỌC - BẠCH THƯỢC DƯỢC HỌCBẠCH THƯỢC Xuất Xứ: Dược Phẩm Hóa Nghĩa Bản. Tên Khác: Bạch thược dược (Thảo Kinh Tập Chú), Dư dung, Kỳ tích, Giảithương (Ngô Phổ Bản Thảo), Kim thược dược (Bản Thảo Đồ Kinh), Mộcbản thảo, Tương ly (Bản Thảo Cương Mục), Lê thực, Đỉnh (Biệt Lục), Ngưuđỉnh, Khởi ly, Thổ cẩm, Quan phương, Cận khách, Diễm hữu, Hắc tândiêng, Điện xuân khách, Cẩm túc căn (Hòa Hán Dược Khảo), Một cốt hoa(Hồ Bản Thảo), Lam vĩ xuân (Thanh Dị Lục), Sao Bạch thược, Khuê Bạchthược, Hàng Bạch thược, Tiêu Bạch thược, Toan Bạch thược (Đông DượcHọc Thiết Yếu). Tên Khoa Học: Paeonia lactiflora Pall. Họ Khoa Học: Thuộc họ Mao Lương (Ranuncuaceae). Mô tả: Thuộc loại cây cỏ sống lâu năm, có nhiều rễ to, mập, d ùng làm thuốc,rễ có cái dài tới 30cm, đường kính 1-3cm, vỏ màu nâu mặt cắt màu trắnghoặc hồng nhạt, cây có nhiều chồi phát triển thành từng khóm, cây cao 0,5-1m. Lá non giòn, dễ gãy, đến màu thu lá vàng và rụng. Lá mọc so le, lá képgồm 3-7 lá chế trứng nhọn, Lá màu xanh nhạt hoặc sẫm. Hoa to mọc đơnđộc, thuộc loại hoa kép, cánh hoa màu trắng, hoặc hồng. Thược dược khôngnhững là câu thuốc quý mà là cây kiểng đẹp. Mỗi hoa thường có vài chụchạt, nhưng có nhiều hạt lép. Địa lý: Cây này mới di thực vào trồng ở Sa Pa bắc nước ta. Hiện nay còn phảinhập của Trung Quốc. Thu hái, sơ chế: Ở Triết Giang thu hoạch sớm nhất khoảng mùng 10tháng 6. Tứ Xuyên vào giữa tháng 7 lúc thời tiết nóng và thu hoặc có thể kéodài cho tới cuối mùa hè thì xong. An Huy vào cuối hè đầu thu. Hồ Nam vàotiết lập thu. Khi thu hoạch, chọn ngày nắng ráo, đất khô, trước hết cắt thân lásau dùng cuốc bới quanh gốc để lấy rễ, chú ý để khỏi gẫy. Lấy rễ giũ sạchđất, cắt riêng từng rễ ra, dùng dao con cắt hết những rễ con, rễ phụ mọc từ rễchính. Sau đó phân loại lớn nhỏ. Nếu sau khi thu hoạch gặp mưa không phơiđược vùi rễ vào đất cát ẩm nhưng không được để quá 2-3 ngày, phơi nắngcho khô thứ chắc rắn là tốt. Phần dùng làm thuốc: Rễ khô hay sấy khô (Radix Paeoniae Alba). Mô tả dược liệu: Bạch thược rễ khô hình viên chùy dài 15-20cm, thô1,2-2cm, mặt ngoài có nứt dọc rõ ràng, màu nâu hoặc xám nâu nhạt, thườngthường có thể nhìn thấy gốc tích rễ phụ chất cứng khó bẻ gẫy mặt cắt màuxám trắng rất mịn, vùng chất mọc tách rời thành khe nứt hơi có mùi thơm.Thường dừng thứ lớn bằng đầu ngón tay hay đầu ngón chân cái, thịt trắnghồng ít sơ. Thứ nhỏ, lõi màu đen sẫm là xấu. Bào chế: + Lấy dao tre cạo thật sạch vỏ ngoài, tẩm nước mật loãng trong 3 giờrồi phơi khô (Lôi Công Bào Chế). + Rửa sạch ngâm nước 1-2 giờ, ủ 1-2 ngày có thể đổ rồi bào hay xắtmỏng, sao qua, có khi tẩm giấm sao qua hay sao cháy cạnh, hoặc tẩm rượusao qua (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách). + Cách bào chế của Tứ xuyên: Dùng một nồi hoặc chảo to, đổ nước đãđun sôi vào, bỏ rễ Bạch thược vào cho ngập hết Rễ, không được cho rễ vàoquá nhiều, nước không đủ ngập. Sau đó loại rễ to đun khoảng 10-15 phút,nếu đun quá lâu sau này cạo bỏ vỏ sẽ hao phí nhiều, nhưng nếu đun rễ chưachín lượng dược liệu giảm. Thường người ta xác định độ chín khi luộc bằngcách khi chưa luộc có mùi tanh của đất, vị đắng nhưng khi chín có mùithơm, bớt đắng. Có thể dùng móng tay bấm được là chín. Luộc xong vớt rangay cho vào nước nguội để khỏi chín quá, sau dễ bóc vỏ.Cạo vỏ bằng cáchdùng thanh tre cật vót cạo hết lớp vỏ ngoài cho đến lớp vỏ trắng. Khi cạo vỏphát hiện có những chỗ sâu bệnh cần gọt vỏ, và phải cạo nhẹ tay để lớp vỏbỏ đi không bị hao hụt nhiều. Cạo vỏ xong, cắt bỏ đầu đuôi, cắt thành khúcdài 10-13cm rồi xếp thẳng đem phơi (Trung Dược Đại Từ Điển). Phơi rễ chia làm 3 giai đoạn: - Phơi nhiều, ủ nhiều: rải Bạch thược ra chiếu, hoặc phân đan phơinắng cứ 20 phút trở một lần, đến giờ chiều đem vào xếp thành đống trên phủchiếu, ngày mai lại đem phơi, tối lại ủ, phơi ủ như vậy 4-5 ngày là xong, vàchuyển sang giai đoạn hai. - Phơi ít, ủ nhiều: Hàng ngày đến 9 giờ mới đem phơi, 3 giờ chiều cấtvào ủ. Khi ủ đối với loại rễ to và trung bình thì phải ủ chiếu kín hoặc bao tải.Khi phơi cứ 30-40 phút trở một lần và ủ thấy rễ mềm ra lại đem phơi, cứ nhưvậy 8-10 ngày là xong và chuyển sang giai đoạn 3. - Phơi ngắn ủ dài: Mỗi ngày chỉ phơi 2-4 giờ, cách 40 phút trở 1 lần,còn ủ như trên nhưng phải ủ 3-4 lớp bao tải, ủ cho đến khi lớp vỏ ngoài củarễ ướt lại, sau đó đem phơi cho đến khi lớp vỏ thật khô, bấm móng taykhông được nữa mới thôi. Theo cách chế biến này thì ngày mùa hè phơi ít ủnhiều, ngàu mùa thu phơi nhiều ủ nhiều, ủ cho rễ mềm ra lại phơi, phơi xongrễ còn đang nóng ủ luôn, nếu chỉ phơi không ủ thì bên ngoài rễ khô, bêntrong còn ướt, để biến sang vị chua không dùng làm thuốc được, hoặc bênngoài vỏ biến thành đỏ chất lượng kém. 3) Cách bào chế của Sơn đông: Dùng dao tre cạo vỏ ngoài cho thậtt ...