Danh mục

DƯỢC HỌC - HẢI PHIÊU TIÊU

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 146.91 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Xuất xứ: Bản kinh. Tên Việt Nam: Nang mực, Mai mực. Tên Hán Việt khác: Mặc ngư cốt (Bản Thảo Cương Mục), Lãm ngư cốt (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Hải nhược bạch sự tiểu lại (Bản Thảo Đồ Kinh), Bạch long, Nhu cốt, Ô tặc giáp, mặc ô ngư, Ô ngư (Hòa Hán Dược Khảo), Ô tặc cốt. (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên khoa học: Os Sipiae.Họ khoa học: Tên gọi: 1- Phiêu tiêu là tổ con bọ ngựa (Xem: Tang phiêu tiêu), vị thuốc giống tổ bọ ngựa nhưng ở ngoài biển, nên gọi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
DƯỢC HỌC - HẢI PHIÊU TIÊU DƯỢC HỌC HẢI PHIÊU TIÊU Xuất xứ: Bản kinh. Tên Việt Nam: Nang mực, Mai mực. Tên Hán Việt khác: Mặc ngư cốt (Bản Thảo Cương Mục), Lãm ngư cốt (Nhật Hoa Tử BảnThảo), Hải nhược bạch sự tiểu lại (Bản Thảo Đồ Kinh), Bạch long, Nhu cốt,Ô tặc giáp, mặc ô ngư, Ô ngư (Hòa Hán Dược Khảo), Ô tặc cốt. (TrungQuốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên khoa học: Os Sipiae. Họ khoa học: Tên gọi: 1- Phiêu tiêu là tổ con bọ ngựa (Xem: Tang phiêu tiêu), vị thuốc giốngtổ bọ ngựa nhưng ở ngoài biển, nên gọi là Hải phiêu tiêu. 2- Mực có thể ăn thịt cả chim quạ, chúng thường nổi lềnh bềnh trênmặt nước giả chết, làm cho nhiều con quạ lầm tưởng và bay sà xuống ăn,nhanh như chớp, mực lôi quạ xuống nước ăn thịt. Do mực đã giết nhiều quạ,nên người xưa cho nó cái tên “Ô tặc” (ô là quạ, tặc là giặc). Mực là giặc đốivới quạ. Mô tả: Hải phiêu tiêu là nang của nhiều loại cá mực, thường dùng nhất lànang mực váng (mực nang) có tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, thuộc họSeppidae. Mực có cấu tạo cơ thể dạng thủy động học, có màng vây, có thểbơi nhanh trong nước nhờ tia nước phụt ra từ phễu thoát nước theo chiềungược lại, bơi theo lối phản lực. Đầu mực có vòng tay, còn gọi là tua mựchay râu mực, ở quanh miệng, và phễu thoát nước là hai cơ quan vận độngđặc trưng ở mực. Ngoài 8 tay ngắn mực còn có hai tay dài hơn. Mặt trongcác tay có rãnh dẫn tới miệng, với nhiều giác tròn, các giác bám có vòng cơkhỏe, bên trong lát một vàng bì dầy, có cuống ngắn. Nhờ vòng cơ khỏe, giácbám có thể co rút, do một nhánh thần kinh tay điều khiển. Các tay của mựclà cơ quan vận động và bắt mồi. Phễu thoát nước ở Mực nằm ở chỗ tiếp giápđầu và xoang áo, có dạng ống kính nón, thông với ngoài và với xoang áo.Hai bên phễu có hai vết lõm, khớp với hai mấu lồi sụn đóng mở khe xoangáo (khe bụng). Khi thành xoang áo co lại, hai van khép chặt, khe bụng khépkín, nước sẽ được tống ra ngoài qua phễu thoát nước. Khi thành xoang áothôi co rút, nước lại dồn từ ngoài vào xoang áo qua khe bụng. Hoạt động nàytạo nên lực đẩy mực di chuyển theo chiều giật lùi, chứ không tiến lên phíatrước. Cách di chuyển này có lợi cho mực khi thấy kẻ thù hoặc con mồi phíatrước mắt. Mực có cuộc sống bơi lội rất hoạt động, chúng đuổi và bắt mồi rấtlinh họat. Mực nang có thể bắt mồi lớn hơn nó về tầm vóc. Mực ống thìthường lao như một mũi tên bắn vào đàn cá thu con đang tung tăng bơi, vànhanh chóng chớp lấy một con cá bằng cách cặp đôi hàm sắc nhọn của mìnhvào lưng hoặc gấy của cá. Hai trong mười tay của Mực biến thành tay dài,chỉ có giác ở phần cuối, rất thuận lợi khi bắt mồi. Các tay của Mự chuyểnmồi đưa vào miệng, ở hầu có thành cơ khỏe có lưỡi bào và có hai hàm hìnhmỏ vẹt sắc. Mực có tuyến mực tiết ra chất đen vào phần cuối trực tràng rồiđẩy ra ngoài, khi gặp nguy con mực phóng dịch đen chứa các hạt melanin,thành vùng tối chung quanh cơ thể để che mắt kẻ thù. Hơn thế nữa, bản chấtcủa ancaloit của chất mực làm tê liệt các cơ quan cảm giác hóa học của kẻthù, nhất là của cá. Mực thường sống từng đàn ở tầng nước đáy, khi kiếmmồi mới nổi lên tầng nước trên, hầu hết khi bơi lội trong nước, mắt mực lồira và màu da luôn thay đổi theo màu nước để dễ lẩn tránh và bắt mồi. Mựcrất thích ánh sáng và màu trắng, khi thấy ánh sáng. Mực tập trung rất đông.Thức ăn của Mực là các loài trứng cá, tôm, cá con. Địa lý: Miền biển nước ta nơi nào cũng có Mực. Khai thác vào tháng 3-9, làthời kỳ mực bơi vào gần bờ để sinh đẻ. Phân biệt. Ở nước ta có nhiều loại Mực, nhưng hai loài phổ biến cógiá trị dinh dưỡng là Mực ống (Logigo Formasana), nhưng thường dùngnang thì chỉ lấy ở các con Mực Nang như mực Ván Sepia Subaculeate, mựcCơm Sepia Andreana Tte. Strup, phân bố rất nhiều ở Quảng Ninh, HảiPhòng, Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình. Phần dùng làm thuốc: Mai (Os Sepiae). Mô tả dược liệu: Xương khô hình thuyền, biểu hiện hình viên chùy dẹt, ở giữa phìnhlớn hai đầu cuối nhỏ dần, dài chừng 20cm, rộng chừng 10cm, dày 2-3cm,mặt ngoài biểu hiện màu trắng, hai bên mép có lớp mỏng hóa sừng màutrắng vàng trong, mài thì khuyết không hoàn toàn, cuối nang mực có một nútnhọn hình chùy nhọn, mặt lưng hơi lồi lên, có lớp chất đá vôi cứng ngắt, mặtngoài nổi lên những hạt phân bố rất dày, từ nút cuối phía sau bắt đầu có biểuhiện hình chữ “V” ngược, bày xếp nhiều lớp mặt bụng thẳng ngang, cuốiphái sau hơi lõm xuống, chất thạch hôi thưa thưa đi, dùng móng tay cạo vàocó thể ra bột trắng, chất nhẹ mà giòn, mặt bẻ ngang màu trắng có nhiều lớpbầy xếp. Thường dùng nguyên cả mai, màu trắng nhẹ không vụn nát, ruộtkhông đen không vàng là tốt. Bào chế: 1- Kinh nghiệm xưa: Khi dùng Ô tặc cốt cần phải sao vàng để dùng(Bản Thảo Chú). Khi dùng Ô tặc cốt phải lấy ...

Tài liệu được xem nhiều: