Xuất xứ: Bản Kinh. Tên Hán Việt: Vương liên (Bản Kinh), Chi liên (Dược Tính Luận), Thủy liên Danh vậng, Vận liên, Thượng thảo, Đống liên, Tỉnh hoàng liên, Trích đởm chi (Hoà Hán Dược Khảo), Xuyên hoàng liên. Tiểu xuyên tiêu, Xuyên nhã liên, Xuyên liên, Thượng xuyên liên, Nhã liên, Cổ dũng liên, Chân xuyên liên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên gọi: Vị này có rễ như những hạt châu liên tiếp kết lại, có màu vàng nên gọi là Hoàng liên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên khoa học: Coptis teeta Wall....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dược học - Hoàng LiênDƯỢC HỌCHOÀNG LIÊN Xuất xứ: Bản Kinh. Tên Hán Việt: Vương liên (Bản Kinh), Chi liên (Dược Tính Luận), Thủy liên Danhvậng, Vận liên, Thượng thảo, Đống liên, Tỉnh hoàng liên, Trích đởm chi(Hoà Hán Dược Khảo), Xuyên hoàng liên. Tiểu xuyên tiêu, Xuyên nhã liên,Xuyên liên, Thượng xuyên liên, Nhã liên, Cổ dũng liên, Chân xuyên liên(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên gọi: Vị này có rễ như những hạt châu liên tiếp kết lại, có màu vàng nên gọilà Hoàng liên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). Tên khoa học: Coptis teeta Wall. Họ khoa học: Họ Hoàng Liên (Ranunculaceae). Mô tả: Cây thảo sống lâu năm, cao độ 30cm. Lá mọc so le, có cuống dài, mọctừ thân rễ trở lên. Phiến lá gồm 3-5 lá chét. Mỗi lá chét lại chia thành nhiềuthùy, mép có răng cưa to. Thân rễ hình trụ, nhiều rễ con, màu nâu vàng nhạt,có hình dáng chân gà nên còn gọi là “Hoàng liên chân gà”, chỗ bẻ màu vàng,vị đắng. Hoa màu trắng, mọc ở ngọn cán hoa. Quả gồm nhiều đài, khi chínmàu vàng. Hạt màu nâu đen. Ra hoa tháng 10-2 năm sau. Hoàng liên lấythân, niên túc (cứ mỗi năm đầu rễ sinh ra một đốt, đầy bốn năm thì gọi làniên túc), Địa lý: Cây hoang ở vùng núi cao trên 1.500m. Ở Việt Nam cây mọc hoang ởtrên dẫy Hoàng Liên Sơn rất nhiều. Thường trồng bằng hạt vào cuối mùaxuân. Thu hái, sơ chế: Thu hái vào tháng 10-12, thời vụ thu hoạch thích hợp nhất là vàotháng 11 trước tiết Lập đông, thường dùng loại 2-3 năm hoặc hơn. Lúc nàyrễ Hoàng liên đã chắc nặng, chứa ít nước, tỉ lệ khô cao. Khi sấy khô nêndùng buồng sấy, sấy khô xong, muốn làm sạch rễ con, làm đất và cuống lácần phải cho vào ống xóc. Ống xóc là một dụng cụ đan bằng tre, có thể làmto hoặc nhỏ. Trước tiên cho Hoàng liên vào ống, đậy nắp lại, nếu ống nhỏ thìhai người cầm hai đầu ống đu đưa, làm cho Hoàng liên bên trong cọ sát vàonhau, khiến các rễ con, cuống lá, bùn đất bị rụng ra, thì thu được Hoàng liênsạch sẽ, đẹp, phẩm chất cao. Xóc xong, đổ tất cả ra sàng, đầu tiên dùng sàngmắt to sàng lấy Hoàng liên, sau đó dùng sàng mắt nhỏ, sàng bỏ đất cát đi, ò ncuống lá lấy về, cũng xếp ngay ngắn thành các bó nhỏ, chặt thành đoạn ngắn1,5cm, phơi khô (Trung Dược Đại Từ Điển). Phần dùng làm thuốc: Thân rễ (Rhizoma Coptidis). Màu sắc bình thường, rễ mập mạnh, ít rễrâu, cứng, chắc, khô, không vụn là tốt. Mô tả dược liệu: Thân rễ khô hình trụ có nhiều rễ con cong queo, có nhiều đốt khúckhuỷu nhiều nhánh không quy tắc, dài chừng 32-65mm, thô chừng 3,2 -3,5mm, mặt ngoài màu vàng nâu hoặc nâu vàng nhạt, tận cùng phía trênthường phân nhánh phình lớn, có vết sẹo của cuống lá ở thân và gốc, đồngthời có những lá vẩy nhỏ. Chất cứng. Bẻ ngang cứng, mặt bẻ màu vàng tươiđậm. Không mùi vị đắng, ở chính giữa có lỗ nhỏ. 1- Nga mi liên: Có nhiều trong núi sâu của núi Nga mi là một trongnhững loại mọc hoang rễ thô, mạnh có hình như bàn tay phật nên gọi là‘Liên vương’, thường sinh trưởng lâu 20-30 năm mới được phát hiện thìphẩm chất cực tốt nhưng sản lượng quá ít. 2- Nhã liên: sản lượng rất nhiều phẩm chất kém hơn Nga mi liên. 3- Vị liên: hình dạng như móng chân gà, nên gọi là “Kê trảo liên”,phẩ m chất tương đối kém. Loại ở phía bắc Trường Giang trơn sáng, lông ít,chất cứng, vỏ nhỏ, bên ngoài màu vàng nâu, bẻ ngang bờ bên đỏ vàng. Loạiở phía nam Trường Giang chất xốp vỏ thô, màu nâu, màu vàng nhạt, bẻngang màu vàng sẫm. 4- Vân liên: Dài khoảng 32mm, thẳng và bóng, phân nhánh ít. Màuvàng nhạt, dễ bẻ gẫy, mặt bẻ gẫy lớp ngoài màu vàng nâu, chính giữa màuvàng tươi. Bào chế: + Cho Hoàng liên vào trong túi vải, xát cho sạch lông gĩa mát dùng,hoặc ngâm trong nước tương 2 giờ vớt ra, sấy khô bằng gỗ liễu để dùng (LôiCông Bào Chích Luận). + Chải sạch rửa tạp chất (không nên ngâm lâu sẽ mất chất), ủ đến vừamềm, thái mỏng phơi trong râm cho khô (dùng sống) hoặc tẩm rượu sao qua[dùng chín] (Trung Dược Đại Từ Điển). Bảo quản: Để nơi khô ráo. Bào chế rồi đậy kín. Cách dùng: 1- Tả Tâm hỏa thì dùng sống. 2- Trị can đởm thực hỏa thì tẩm sao với mật heo. 3- Trị can đởm hư hỏa thì tẩm sao với dấm. 4- Trị hỏa ở thượng tiêu thì sao với rượu. 5- Trị hỏa ở trung tiêu thì sao với nước gừng. 6- Trị hỏa ở thượng tiêu thì sao với nước muối hoặc sao với Phác tiêu. 7- Trị thấp nhiệt hỏa ở phần khí thì tẩm với Ngô thù du. 8- Trị phục hỏa trong phần huyết thì sao với nước Can tất. 9- Trị thực tích hỏa thì sao với Hoàng thổ (Bản Thảo Cương Mục). Thành phần hóa học: . Berberin (5,56 – 7,25%), Coptisine, Epiberberine (Yoneda Kaisukevà cộng sự, Shoyakugaku Zasshi 1988, 42 (2): 116). . Berberrubine (Yoneda Kaisuke và cộng sự, Shoyakugaku Zasshi1988, 43 (2): 129). . Palmatine, Columbamine, Worenine, Jat ...