Xuất Xứ: Khai Bảo Bản Thảo. Tên Khác: Bịnh cam tử, Đông quân tử (Trung Dược Tài Thủ Sách), Lựu cầu tử (Tây Phương Bản Thảo Thuật), Ngũ lăng tử (Dược Tài Tư Khoa Hối Biên), Quả Giun, Quả Nấc (Dược Điển Việt Nam), Sách tử quả (Nam Đình Thị Dược Vật Chí), Sử quân nhục (Đông Dược Học Thiết Yếu). Tên Khoa Học: Fructus Quisqualis Indica L. Họ khoa học: Họ Bàng (Combretaceae). Mô Tả Cây: Loại dây leo, mọc tựa vào cây khác . Lá mọc đối, đơn, nguyên. Hoa hình ống, mọc thành chùm ở kẽ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
DƯỢC HỌC SỬ - QUÂN TỬ DƯỢC HỌCSỬ QUÂN TỬ Xuất Xứ: Khai Bảo Bản Thảo. Tên Khác: Bịnh cam tử, Đông quân tử (Trung Dược Tài Thủ Sách), Lựu cầu tử(Tây Phương Bản Thảo Thuật), Ngũ lăng tử (Dược Tài Tư Khoa Hối Biên),Quả Giun, Quả Nấc (Dược Điển Việt Nam), Sách tử quả (Nam Đình ThịDược Vật Chí), Sử quân nhục (Đông Dược Học Thiết Yếu). Tên Khoa Học: Fructus Quisqualis Indica L. Họ khoa học: Họ Bàng (Combretaceae). Mô Tả Cây: Loại dây leo, mọc tựa vào cây khác . Lá mọc đối, đơn, nguyên. Hoahình ống, mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc ngọn cành, dài khoảng 4-10cm.Lúc mới nở hoa mầu trắng sau chuyển thành đỏ phớt tím. Quả khô, hình tráixoan, có 5 sườn lồi, đầu trên nhọn, đầu dưới hơi tròn, khi chín mầu nâu sẫm.Mặt cắt ngang hình sao 5 cánh, giữa có khoang tròn đựng 1 hạt. Hạt hìnhthoi, vỏ mầu nâu sẫm, mỏng, nhăn nheo, dễ bóc, mùi thơm, vị bùi. Địa lý: Cây mọc hoang ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và Trung Việt Nam. Thu Hái: Tháng 9-10 và vào mùa đông, lúc trời khô ráo, hái quả gìa. Lựa loạivỏ cứng nâu đen, nhân trắng, mầu vàng nâu, có nhiều dầu, không vụn nát,không teo, không thối đen là thứ tốt. Quả hơi bầu bầu to thường tốt, quả dài,nhọn, bé thì nhân thường bị teo, sâu ăn là loại xấu. Phơi khô, đập lấy nhân.Tiếp tục phơi hoặc sấy nhẹ ở nhiệt độ 50 - 600C đến khô. Bộ phận dùng: Quả chín khô (Fructus Quisqualis). Mô tả dược liệu: Sử quân tử hình bầu dục hoặc hình tròn trứng, có 5 đường cạnh dọc, 2đầu nhọn như hình thoi, dài khoảng 3cm, đường kính 1,6 – 2cm. Vỏ ngoàimầu nâu đen hoặc đen tím. Cứng, thể nhẹ, khó bẻ gẫy, chỗ cắt ngang hìnhsao 5 cạnh, vỏ chỗ cạnh dầy hơn, khoảng giữa giống hình tròn, trong có 1nhân. Nhân hình bầu dục, dài hoặc giống cái suốt vải, dài 2cm, đường kính2cm, mặt ngoài có nhiều vết nhăn dọc, ngoài bọc 1 lớp màng mỏng mầu đentro hoặc nâu đen, dễ bóc. Thịt mầu trắng vàng, mềm, có dầu, dễ bẻ. Khôngmùi, vị ngọt (Dược Tài Học). Bào Chế: + Bỏ vỏ, lấy nhân, sao thơm để dùng hoặc để cả vỏ gĩa nát dùng(Trung Dược Đại Từ Điển). + Lấy nhân ngâm qua nước, sao vàng, bỏ màng. Hoặc lấy nhân ngâmqua nước, sao giòn, tán bột, lấy 1 phần, thêm 3 phần bột nếp rang vàng chínvà 1 chén đường, trộn đều, làm thành bánh cho trẻ nhỏ ăn [phương cách nàytránh được không bị nấc] (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược). Bảo Quản: Dễ mọt mốc vì vậy cần để nơi khô ráo, kín, mát, thỉnh thoảng nênphơi. Thành Phần Hóa Học: + Trong nhân Sử quân tử có chứa 20-27% chất dầu béo mầu xanhlục nhạt, sền sệt, mùi nhựa, vị nhạt, không có tác dụng tẩy giun (Những Câythuốc Và Vị Thuốc Việt Nam). + Chất gôm, các chất hữu cơ, chất đường (Dược Liệu Việt Nam). Tác Dụng Dược lý: 1- Diệt Giun: Năm 1935, Perrier dùng nước sắc Sử quân tử ở ViệtNam thí nghiệm trên giun đất nhận thấy: giun bị tác dụng của nước sắc Sửquân tử dẫy dụa, sau đó tê liệt các bộ phận, da bong ra, mầu nhợt nhạt, hônmê. Năm 1947, Chu Đình Xung (Trung y Khoa học Tạp chí số 20, I: 143)thí nghiệm so sánh tác dụng của dung dịch nước Sử quân tử 10%, dung dịchnước tro Sử quân tử 10% và dung dịch 0,5% Kali Clorua trên giun đất đềuthấy tác dụng giống nhau, vì vậy các tác giả kết luận rằng hoạt chất của Sửquân tử là muối Kali chứa trong Sử quân tử. Năm 1948, Ngô Vân Thùy (trong Trung Hoa Y Học Tạp Chí số 34:437,441) khi nghiên c ứu so sánh tác dụng diệt giun của 1 số vị thuốc Đông y(Bách bộ, Khiên ngưu, Lôi hoàn, Ô dược, Quán chúng, Xuyên luyện tử...) đãkết luận rằng Sử quân tử có tác dụng diệt giun mạnh. Năm 1950, Hồ Mông Gia (Trung Hoa Y Học Tạp Chí số 36: 619 -622) báo cáo đã dùng cồn 950, cồn 500 để chiết Sử quân tử, bã sau khi chiếtbằng cồn 950 được chiết bằng nước rồi thí nghiệm tác dụng trên giun đấtthấy dịch chiết bằng cồn 950 không có tác dụng, dịch chiết bằng cồn 500và nước hơi có tác dụng ức chế và gây mê. Năm 1958, Đỗ Tất Lợi dùng Sử quân tử cắt bỏ đầu và bóc màng đi rồicho ăn sống hoặc sắc uống đều thấy có gây nấc. Khi mới uống không thấynấc nhưng sau khi ăn cơm thì thấy nấc. Nếu uống quá nhiều thì thấy mệt,ngoài ra không thấy hiện tượng nguy hiểm nào khác. Tác giả cũng báo cáorằng nước sắc toàn quả giun có bóc vỏ hoặc không bóc vỏ vẫn có kết quảdiệt giun (Những Cây thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam). 2- Độc Tính: Năm 1942, Trường Kỳ (Y Học Hội Tạp Chí Nhật bản số 2: 471 - 485ghi nhận đã dùng dung dịch nước sắc Sử quân tử (0,83g/kg) tiêm dưới dachuột bạch, sau vài phút xuất hiện trạng thái mệt mỏi, hô hấp chậm lại khôngđều, sau 1-2 giờ, toàn thân co quắp, hô hấp ngưng lại mà chết, tuy nhiên timcòn hơi co bóp. Liều tối thiểu gây chết là 20g/kg (Những Cây thuốc Và VịThuốc Việt Nam). . Năm 1926, K.M.Wu trong Chemical Analysis And AnimalExperimentation Of Quisqualis Indica Mat.Med ...