Danh mục

Dược vị Y Học: CAO BAN LONG

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 78.74 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tên khoa học: Colla cornus Cervi. Bộ phận dùng: Gạc (sừng) hươu nai. Hươu còn gọi là Lộc (Cervus axis Exl) và nai còn gọi là Mê (Cervus unicolor Cuv), là những con vật chân có móng đơn, họ Ugulata, sống từng bầy trong rừng, hươu và nai đực mới có sừng. Hươu bé hơn nai ba bốn lần, mình có sao trắng (cũngcó thứ không có sao), sừng già lên bốn nhánh mỗi bên; hươu nuôi bé hơn hươu rừng. Nai mình không có sao, sừng già chỉ lên có 3 nhánh, ít nuôi vì hay phá. Nai già...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dược vị Y Học: CAO BAN LONG CAO BAN LONGTên khoa học: Colla cornus Cervi.Bộ phận dùng: Gạc (sừng) hươu nai.Hươu còn gọi là Lộc (Cervus axis Exl) và nai còn gọi là Mê (Cervus unicolorCuv), là những con vật chân có móng đơn, họ Ugulata, sống từng bầy trong rừng,hươu và nai đực mới có sừng. Hươu bé hơn nai ba bốn lần, mình có sao trắng(cũngcó thứ không có sao), sừng già lên bốn nhánh mỗi bên; hươu nuôi bé hơnhươu rừng.Nai mình không có sao, sừng già chỉ lên có 3 nhánh, ít nuôi vì hay phá. Nai già còngọi là chả râu. Hàng năm vào cuối mùa hạ, hươu hay nai cọ đầu vào cây làm chosừng rụng. Gạc tức là sừng, chỉ là xương không còn lông da. Gạc hươu hay nai thìnghiêng có 4 hay 3 chi ở một bên nhánh; mỗi bộ nặng trên 5 kg, còn tươi chẻ rathấy vàng ngà, không đen, thường lấy ở hươu nai săn bắn được tốt hơn thứ bị rụng.Nhưng trái lại cũng có người lại cho sừng mới rụng có nhiều khí lực nên tốt hơn.Gạc bị nứt, dập đen thì độc vì cho đó là hươu nai bị hổ cắn, nhưng thật ra thì khóphân biệt là hổ cắn hay bị va chạm mà nứt.Gạc nai Mông Cổ thì đứng thẳng, mỗi chiếc nặng trên 7 kg, có 7 chi mỗi bênnhánh, gạc này nấu thì được cao vàng.Dùng để nấu cao, người ta cần phân biệt gạc hươu hay nai, thường nấu bằng gạcnai hơn vì dễ mua, rẻ tiền, tuy nhiên gạc hươu thì vẫn quý hơn.Gạc chia làm mấy loại tốt xấu thứ tự như sau:1. Bao bì: là thứ gạc còn da, lông, chóp sờ thấy mềm, đồ lên còn thái được.2. Liên tảng: là gạc còn xương trán nối hai nhánh với nhau.3. Gạc có đế lồi ra: chứng tỏ sừng mới rụng.4. Gạc có đế lõm vào: là thứ xấu, không dùng.5. Gạc xốp, gẫy, dập: là thứ xấu, không dùng.Thành phần hoá học: gạc có chất keo 25%, calci phosphat 30 - 60%, calci cacbonat1%, chất đạm nước v.v... Cao ban long có keratin thuỷ phân cho nhiều acid amin.Tính vị: vị ngọt, hơi mặn, tính ôn.Quy kinh: Vào các kinh Thận, Tâm, Can và Tâm bào.Tác dụng: bổ nguyên dương. Thuốc tư bổ cường tráng.Chủ trị: trị lậu huyết, băng huyết, thổ huyết, đau lưng gối, mỏi chân tay, trị ditinh, đái ra huyết, an thai, thuốc bồi dưỡng.Liều dùng: Ngày dùng 4 - 12g.Cắt thành từng miếng nhỏ để nhai hay ngậm hoặc có thể hoà với rượu hay ăn cháođường.Có thể hoà cao Ban long (1 phần) vào nước sắc Long nhãn (5 phần) để uống vàolúc sáng sớm và tối trước khi đi ngủ (Lãn Ông). Các cụ già nên dùng chung vớimật ong trước khi đi ngủ.Kiêng kỵ: người có bệnh hư hàn thì không nên dùng.Cách bào chế:Thường một lần nấu trên 30kg gạc thì được độ 7,5kg cao Ban long. Nấu cao Banlong có 3 giai đoạn: làm sạch, tẩm nấu và cô.1. Làm sạch: cứ 10 gạc thì dùng 0,200kg phèn chua đổ ngập nước, đun sôi độ 1/2giờ (để dễ cạo cái đen bên ngoài). Lấy ra dùng bàn chải sắt thép cứng hay cái nạo,cạo kỹ cho hết cái đen. Nếu không cạo kỹ thì sau này cao đen không trong và cóngười cũng cho nó là nguyên nhân cao bị cháy. Rửa, phơi khô, rồi đem cưa từngkhúc như khẩu mía độ 5 – 6 cm, chẻ nhỏ làm 2 - 3 mảnh. Chỗ nào có tuỷ đen thìcần bỏ đi vì đó là nơi vi khuẩn đã phát sinh. Có người kỹ hơn cạo hết cả tuỷ (dùvàng hay đen), vì cho là có mỡ làm cho sau này cao bị chảy. Phơi cho khô.2. Tẩm nấu: cứ 10 gạc đã chẻ nhỏ, tẩm với 1 kg gừng tươi giã nhỏ, để độ 2 giờ rồisấy khô để nấu cao. Cho gạc vào thùng men hoặc khạp là tốt nhất, xung quanh cáilồng rỗng ở giữa để múc nước cốt ra, đổ ngập nước trên 10cm, đun sôi. Suốt thờigian nấu, lửa phải đều và liên tục. Cứ 2 ngày một đêm thì lấy ra một nước. Bêncạnh có thùng nước sôi, cạn đến đâu thì tiếp vào cho đủ mức nước cũ. Có ngườikhuyên nên dùng nước mưa, nước cất thì bảo đảm hơn, vì nước giếng, nước sôngcó nhiều khoáng chất có thể là nguyên nhân làm cao bị chảy. Khì nấu thấy nổi bọtthì vớt ra. nếu không sau này cũng là nguyên nhân làm cao có thể bị chảy. Nấu liêntiếp ba nước, khi định lấy ra một nước, thì để cạn eho còn 1/2 mới lấy ra. Lọc quahai lần vải đặt trong một cái rây thưa (có người dùng trấu đã rửa, luộc kỹ để lọc)vào một cái chậu men, rồi Can h ở 50o - 60o C cho khỏi thiu và chờ nước sau đểcùng cô. Riêng nước thứ ba, sau khi lọc rồi để lắng đứng, chỉ lấy nước trong ở trên,bỏ cặn, trộn ba nước làm một để cô chung.3- Cô cao: khi bắt đầu cô chung thì dùng lửa nhỏ (70 -80oc) trực tiếp. Khi cao gầnđặc rồi, cô bằng cách thuỷ hoặc trên cát, nhiệt độ phải hạ dần 60 đến 40o C. Lúcnày phải đánh mạnh, liền tay, đều tay nếu không cao sẽ bị cháy, khê và nước cònlại có thể bị chảy. Khi lấy dao rạch sâu xuống miếng cao, hai mép không khép lạiđược nữa là được. Đổ lên khay có khuôn đã bôi mỡ, dầu cho khỏi dính. Lấy vải ấmđậy lên, để một đêm hôm sau lấy ra từng miếng 100g hay 50g (tuỳ theo khuôn )treo lên phơi âm Can chỗ thoáng gió cho đến khô rồi gói vào giấy bóng kín.Ghi chú:- Mạt cưa gạc: có thể cho riêng vào túi vải cùng nấu với gạc trong thùng.- Nấu xong nước thử ba, miếng gạc bóp thấy dễ bở tơi là nấu đúng mức, không cầnphải nấu lấy nước thứ tư có ...

Tài liệu được xem nhiều: