Danh mục

Gậy rút đất

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 152.59 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Gậy rút đấtỞ núi Xuân Đài, xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) có động Hồ công. Phía trước động ngoảnh về sông Mã. Trong động có hai tượng đá. Tục truyền khi xưa, có một ông già và một thằng bé đi bán thuốc ngồi nghỉ ở đó, rồi tự nhiên biến mất. Người ta cho là hậu thân của ông Hồ Công và Phí Trường Phòng. Bởi vậy tạc tượng để thờ. Câu chuyện Việt Nam lại liên quan chuyện của Tàu. Vì truyện Hồ Công và Phí Trường Phòng là truyện Tàu. Cả hai người đều...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Gậy rút đất Gậy rút đấtỞ núi Xuân Đài, xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) có động Hồ công.Phía trước động ngoảnh về sông Mã.Trong động có hai tượng đá. Tục truyền khi xưa, có một ông già và một thằng béđi bán thuốc ngồi nghỉ ở đó, rồi tự nhiên biến mất. Người ta cho là hậu thân củaông Hồ Công và Phí Trường Phòng. Bởi vậy tạc tượng để thờ.Câu chuyện Việt Nam lại liên quan chuyện của Tàu. Vì truyện Hồ Công và PhíTrường Phòng là truyện Tàu. Cả hai người đều là người Tàu.Liệt tiên truyện chép:Khoảng đời Tây Hán (206 trước D.L.-8 sau D.L.) có ông Hồ Công hằng ngày bánthuốc ở chợ Trường An. Ông thường đeo một cái bầu bên hông. Tối đến thì chunvào bầu ấy mà ngủ.Phí Trường Phòng là người hằng ngày dâng bánh cho Hồ Công ăn, thấy thế làm lạkỳ. Một hôm, yêu cầu Hồ Công cho mình vào bầu thử một lần xem sao. Hồ Côngbằng lòng, đưa Phí vào bầu.Trong bầu có những lầu đài tráng lệ, có những kẻ hầu hạ rất lịch sự trông như cảnhthần tiên. Phí Trường Phòng cực kỳ kinh ngạc nói:- Không ngờ đây lại chiếm riêng một cõi càn khôn.Hồ công nói:- Ta vốn là tiên bị trích xuống trần nên tạm ngụ ở đây.Trường Phòng yêu cầu, xin theo Hồ công học đạo tiên. Hồ công bèn dẫn vào núidạy phép tu luyện. Khi từ biệt, Hồ công trao cho Trường Phòng một cây gậy trerút đất, có phép thâu ngắn đường đi.Từ đấy, Trường Phòng xách gậy, rày đây mai đó, công danh phú quý gác bỏ ngoàitai. Hàng ngày, Phí thường la cà nơi quán rượu; nhân đó quen biết một anh línhthú. Anh này rất kính trọng Phí, và thường trút túi đãi rượu thẳng tay.Một hôm trên đường về chỗ trọ, Phí thấy anh lính vẻ mặt buồn bã, thỉnh thoảng lạithở dài thườn thượt, mới hỏi cớ sự. Anh lính thú thực là ba năm rồi, chẳng đượcphép về quê thăm vợ con. Anh nhớ lắm. Phí vui vẻ nói:- Tưởng là việc gì khó, chớ muốn thăm vợ con thì ta giúp cho. Đêm nay về chungvui vợ con, sáng đến có mặt cho khỏi bị quan quở.Cho là lời bỡn cợt vô duyên, anh lính tức bực bảo:- Trông ông có vẻ tiên phong đạo cốt, tôi kính trọng ông, không ngờ ông lại tànnhẫn chế giễu, cười cợt trước sự đau khổ của tôi. Từ đây về quê tôi, đường trảihàng vạn dặm lại gay go hiểm trở, phải đi trót tháng mới về đến nơi. Thế mà ôngbảo đêm nay về, sáng đến!Phí Trường Phòng không hờn giận, vẫn vui vẻ, cười bảo:- Ta nói thật đấy. Ta có phép tiên. Từ trước đến nay, ta vốn thọ ơn hậu đãi, nay talàm phép mọn để gọi là trả ơn chút ít đó.Đoạn, bảo anh lính ngồi lên cây gậy và nhắm mắt lại, chừng nào nghe hết hơi giósẽ mở mắt ra. Và, khi sáng sớm cũng ngồi trên gậy trở lại, thực hành như lúc về.Anh lính mừng rỡ, vâng lời.Vừa trèo ngồi lên gậy xong thì gió ù ù thổi đến, anh lính nhắm chặt mắt lại. Rồicảm thấy thân mình nhẹ bổng như bay giữa thinh không. Thoáng chốc, gió lặng,anh mở bừng mắt ra thì trước mắt anh quả thực đây là nhà của mình.Vợ chồng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi, tưởng chừng như sống trong mộng. Thếlà đêm đó, vợ chồng mặc tình trút nỗi tâm sự những ngày xa vắng nhớ nhau.Rồi sáng sớm, anh lại lên gậy trở về biên thú.Phí Trường Phòng còn giúp anh lính được nhiều lần như thế nữa.Một thời gian lâu sau, Phí Trường Phòng ném cây gậy tre ấy ở xứ Cát Bi, hóa rarồng mà bay đi mất. Từ đó, người ta không tìm thấy hình bóng của Phí đâu nữa.Trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn có câu:Hận vô Trường Phòng xúc địa thuật.Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm:Gậy rút đất dễ khôn học chước.Trường Phòng, xúc địa thuật (phép rút đất) hay gậy rút đất đều do điển tíchtrên.Vua Lê Thánh Tông đời Hậu Lê (1428-1788) có làm bài thơ về động Hồ công:Thần chùy quỷ tạc vạn trùng san,Hư thất cao song vũ trụ khoan.Thế thượng công danh đô thị mộng,Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn.Hoa dương long hóa huyền châu trụy,Bích lạc tuyền lưu bạch ngọc hàn.Ngã dục thặng phong lăng tuyệt lĩnh,Vọng cùng vân hải hữu vô gian.Bản dịch của Thiện Đình:Khuông thiêng khéo tạc núi muôn trùng,Cửa động thênh thênh gió dễ thông.Cuộc thế công danh mơ tưởng hão,Bầu tiên phong nguyệt thú vui cùng.Hạt châu rơi đất ghi rồng hóa,Giọt ngọc tuôn trời rõ suối trong.Muốn cưỡi gió lên chơi đỉnh núi,Trông mây, trông nước tít từng không. ...

Tài liệu được xem nhiều: