Thiến gà, thiến heoHoa Đà tự Nguyên Hóa, người ở Tiêu Quận, đất Bái đời Tam Quốc (220-264) có tài chữa bịnh linh diệu trên đời. Ai mắc bịnh cần đến thì, hoặc cho thuốc, hoặc mổ chích, hoặc châm cứu, động tay vào là khỏi ngay. Ai đau lục phủ ngũ tạng khó chữa, ông cho uống một thang ma phế làm người bịnh mê man như chết, rồi dùng dao nhọn bén mổ bụng ra, lấy thuốc tẩy rửa tạng phủ, người bịnh chẳng đau đớn gì cả. Tẩy rửa xong, lấy kim chỉ khâu lại và rịt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thiến gà, thiến heo Thiến gà, thiến heoHoa Đà tự Nguyên Hóa, người ở Tiêu Quận, đất Bái đời Tam Quốc (220-264) cótài chữa bịnh linh diệu trên đời. Ai mắc bịnh cần đến thì, hoặc cho thuốc, hoặc mổchích, hoặc châm cứu, động tay vào là khỏi ngay.Ai đau lục phủ ngũ tạng khó chữa, ông cho uống một thang ma phế làm ngườibịnh mê man như chết, rồi dùng dao nhọn bén mổ bụng ra, lấy thuốc tẩy rửa tạngphủ, người bịnh chẳng đau đớn gì cả. Tẩy rửa xong, lấy kim chỉ khâu lại và rịtthuốc vào, sau một tháng hoặc vài mươi ngày là người bịnh bình phục. Chữa bịnhgì cũng tài tình như thế. Thật xứng danh là một thần y, được xem ngang hàng vớiBiển Thước đời Chiến Quốc.Tào Tháo, chúa nước Ngụy, đau đầu óc như búa bổ, không sao chịu nổi, vội truyềnchỉ thị khắp nơi tìm thầy thuốc giỏi về chữa. Nhưng chữa mãi không thuyên giảmchút nào, Tháo đau đớn dữ dội. Bấy giờ có người giới thiệu Hoa Đà. Tháo cho mờiđến. Chẩn mạch xong, Hoa Đà nói:- Đại vương đau đầu là vì nhiễm phải gió độc. Gốc bịnh ở trong màng óc nên rảigió không thoát ra được, dùng thuốc cũng uổng mà thôi. Tôi có phép này chữađược, trước hết đại vương uống thang ma phế cho mê đi, rồi tôi dùng búa sắt bổtách xương sọ, rạch vào màng óc lấy cái rải gió ra, thế mới trừ tuyệt nọc được.Tháo nghe qua, giựt mình trố mắt rồi bỗng đùng đùng nổi giận quát:- Ngươi muốn giết ta phải không?Hoa Đà dù biện bạch tài nghệ công hiệu thế mấy nhưng Tháo vẫn đa nghi, cho Đàlà tay sai của địch muốn mưu hại mình nên thét tả hữu bắt Hoa Đà giam vào ngục,quyết tra hỏi cho ra.Hoa Đà bị giam, có người lính ngục họ Ngô trông coi, người quen gọi là Ngô ápngục. Người này ngày ngày đem cơm rượu vào cung phụng Hoa Đà. Đà cảm ơnmới bảo rằng:- Tôi sắp chết. Chỉ tiếc bộ sách Thanh Nang chưa truyền ra đời. Nay cảm thấylòng tốt quý của ông, chẳng biết lấy gì báo đáp, vậy tôi viết bức thư này, ông cứcho người đem đến nhà tôi lấy quyển Thanh Nang về đây. Tôi xin tặng để ôngnối lấy nghề thuốc.Ngô áp ngục mừng rỡ nói:- Nếu được bộ sách ấy, tôi sẽ bỏ nghề này, đi khắp thiên hạ chữa bịnh giúp ngườiđể truyền cái đức của tiên sinh.Đà liền viết thư trao cho Ngô áp ngục nhờ người đến thẳng quê nhà, hỏi vợ HoaĐà lấy bộ Thanh Nang đem về ngục. Hoa Đà cầm lấy, dò lại từng chương đầy đủliền đưa tặng ngay ân nhân. Ngô áp ngục đem về cất kỹ.Qua mười ngày sau, Hoa Đà chết trong ngục.Ngô áp ngục mua quan tài khâm liệm chu đáo. Chôn cất Hoa Đà xong, liền bỏnghề lính ngục, lòng khoan khoái trở về nhà, mong đem bộ Thanh Nang ra học đểlàm nghề thuốc.Nhưng ...Hỡi ôi! Về đến cổng, Ngô thấy mụ vợ đương đem sách ra đốt. Ngô hoảng hốt, vộichạy sấn vào giằng lấy, nhưng sách đã cháy gần hết, chỉ còn được vài tờ. Ngô tứcgiận mắng vợ thì mụ vợ nói:- Nếu mình có học được giỏi như Hoa Đà rồi cũng chẳng qua đến chết trong lao tùmà thôi! Quý báu gì cuốn sách này?Ngô chép miệng thở dài, tiếc ngẩn người ra một hồi rồi cũng đành chịu.Vì thế bộ sách Thanh Nang không được truyền đến đời sau. Chỉ còn ít thuật nhỏnhư thiến gà, thiến heo, chính là do ở vài chương còn lại.Tục uống máu ăn thềNúi Đồng Cổ ở xã Đan Mô, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Núi này còn gọi lànúi Khả Phong. Sách Việt điện U Linh có chép:Đời nhà Lý (1010-1225), vua Lý Thái Tông tên Phật Mã lúc còn làm thái tử(1020), Lý Thái Tổ là Lý Công Uẩn sai đem quân đánh Chiêm Thành. Quân đi đếnTrường Châu, trời đổ tối, thái tử dừng quân nghỉ tại đó. Đêm khuya thái tử nằmmộng thấy một người lạ mặt vận nhung phục, cầm binh khí bước đến gần cúi đầutâu rằng:- Tôi là thần núi Đồng Cổ, nghe tin điện hạ đi bình Chiên nên xin ám trợ.Khi thái tử đánh được Chiêm Thành, trở về đến núi Đồng Cổ làm lễ tạ, rồi khấnxin rước về Thăng Long để giúp nước yên dân. Về đến kinh đô, xem khắp trongthành không có chỗ nào vừa ý nên đặt lễ khấn thần. Vị thần Đồng Cổ liền báomộng xin cho lập đền ở sau chùa Thánh Thọ tại phía hữu kinh thành, tức thônĐông, xã Yên Thái bây giờ (bây giờ là làng Đông Xã). Vua y lời thần mộng, lậpđền thờ ở đấy.Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, thái tử sắp lên kế vị thì đêm ấy, thần Đồng Cổ báomộng cho nhà vua biết có ba vị hoàng tử: Vũ Đức vương, Dực Thánh vương vàĐông Chinh vương sắp khởi loạn nên kíp đề phòng.Sáng hôm sau, quả nhiên ba vị hoàng tử đem quân vây hãm kinh thành để tranhngôi vua. May có danh tướng Lê Phụng Hiểu giúp vua dẹp ngay được cuộc khởiloạn. Nhớ ơn thần nhân mách bảo, vua Lý Thái Tông phong cho thần làmThiên HạMinh Chủ, lại gia phong chức Đại Vương.Trong số ba hoàng tử, một người là Vũ Đức vương bị Lê Phụng Hiểu chém chếttại trận, còn hai người trốn chạy; sau về xin chịu tội. Nhà vua nghĩ tình cốt nhụctha tội và cho hồi phục chức tước cũ.Sau đó, vào ngày 23 tháng 3 năm 1028, nhà vua ban chiếu lập đàn treo cờ tại đềnĐồng Cổ, bắt các hoàng thân quốc thích và tất cả triều thần tới đền, đứng trướcthần vị, đọc lời thề rằng: Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; ai bất tru ...