Danh mục

Khúc Nghê Thường Vũ Y

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 157.26 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Khúc Nghê Thường Vũ YTheo truyền thuyết (sách "Dị văn lục") thì khúc vũ này do Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện về chế ra cho những người cung nữ múa hát. Nguyên một đêm Trung Thu, niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường (713-741), vua Minh Hoàng thấy trăng sáng, mơ ước được đặt chân đến đấy xem chơi. Có đạo sĩ tên La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện), người có phép tiên mới dùng giải lụa trắng, hóa thành một chiếc cầu đưa nhà vua đến Nguyệt điện. Trong điện bấy giờ sáng rực....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khúc Nghê Thường Vũ Y Khúc Nghê Thường Vũ YTheo truyền thuyết (sách Dị văn lục) thì khúc vũ này do Đường Minh Hoàng duNguyệt điện về chế ra cho những người cung nữ múa hát.Nguyên một đêm Trung Thu, niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường (713-741),vua Minh Hoàng thấy trăng sáng, mơ ước được đặt chân đến đấy xem chơi. Cóđạo sĩ tên La Công Viễn (có sách chép là Diệp Pháp Thiện), người có phép tiênmới dùng giải lụa trắng, hóa thành một chiếc cầu đưa nhà vua đến Nguyệt điện.Trong điện bấy giờ sáng rực. Tiếng nhạc du dương. Những nàng tiên trong nhữngxiêm y xinh tươi, lộng lẫy, uyển chuyển múa hát như đàn bướm đủ màu tha thướt,bay lượn bên hoa.Đường Minh Hoàng càng nhìn càng thấy say mê, quên cả trời gần sáng, nếu khôngcó La Công Viễn nhắc thì quên trở về.Nhờ ghi nhớ cách điệu nên khi trở về triều, Đường Minh Hoàng chế thành khúcNghê Thường vũ y để tập cung nữ múa hát. Rồi cứ đến đêm rằm tháng tám,Đường Minh Hoàng cùng với Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng, ngắm đoàncung nữ xiêm y rực rỡ, uyển chuyển múa khúc Nghê Thường để tưởng như sốngtrong cung Quảng Hàn, điện Nguyệt.Truyền thuyết này có tính cách thần thoại.Đường thư chép: Đường Minh Hoàng lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữmặc áo cánh chim, xiêm y ngũ sắc, hát bài Tây Thiên điệu khúc, đến khi trở vềtrần, còn nhớ mang máng. Nhằm lúc có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật từ TâyLương, đem khúc hát Bà La Môn đến biếu, Minh Hoàng truyền đem san định lạivà đổi tên là khúc Nghê Thường vũ y.Tài liệu này có phần thực tế.Nghê là cầu vồng. Tiếng miền Nam gọi là cái mống, do ánh nắng xuyên qua hơinước trong mây nên phân thành bảy màu. Sách Tàu ngày xưa chỉ nhận có nămmàu.Thường là xiêm, để che phần hạ thân của người. Nghê Thường có nghĩa làxiêm cắt bằng năm màu.Vũ y là áo dệt bằng lông chim. Hay có nghĩa là kiểu áo theo hình cách chim.Nghê Thường vũ y, ta có thể cho đó là những vũ nữ mặc áo theo hình cánh chim,còn quần thì bằng lụa phất phới ngũ sắc.Những nhà sử học và khảo cổ học đã cho biết: đời Đường (và trước đời Đường),người Tàu đã có một khái niệm rõ rệt về địa dư vùng Tân Cương mà họ thườngđến để mua bán và... chinh tây. Mặc dù người Tàu chưa từng chinh phục Ấn Độnhưng sự bang giao về thương mại và chính trị đã có từ đời Hán (206-196 trướcD.L.). Ấn Độ là nơi mà đạo Bà La Môn rất phồn thịnh. Lắm khi người Tàu vàngười Tân Cương lúc bấy giờ gọi phần đất Ấn Độ là Bà La Môn quốc. Bằng cớ làvào năm 629, lúc nhà sư Trần Huyền Trang (thường gọi là Đường Tam Tạng) đithỉnh kinh ở Ấn Độ, ghé nước Cao Xương. Vua nước này có viết một bức thư chovị Khả Hãn Tây Đột Quyết, yêu cầu Khả Hãn hết sức ủng hộ Huyền Trang đi dễdàng đến Bà La Môn quốc.Vậy, ta có thể cho khúc Nghê thường vũ y là hình thức biến chuyển của khúc hátBà La Môn đã có trước tiên ở phần đất Ấn Độ ngày xưa. Nó truyền sang Tàu ởđất Tây Lương do Tiết độ sứ Trương Kính Thuật đem dâng cho Đường MinhHoàng.Đất Tây Lương chính là huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc ngày nay của nước Tàu.Trước đời nhà Đường, Đôn Hoàng đóng một vai trò quan trọng về phương diệnvăn hóa và thương mại.Về mặt văn hóa, Đôn Hoàng chính là nơi các pháp sư Ấn Độ đến nghỉ ngơi, giảngđạo trước khi đi sâu vào đất Tàu. Về mặt thương mại, Đôn Hoàng là đầu cầu nốiliền đường chở tơ lụa từ Tàu sang Ấn Độ, Ba Tư đến Địa Trung Hải. Ở đây là nơitập trung các đoàn thương gia quốc tế chuyên chở hàng hóa trên lưng lạc đà tấpnập để trao đổi sản phẩm. Các nhà sử học gọi là Đường tơ lụa (Route de la soie).Con đường dài xa thẳm ấy phải trải qua nhiều nước nhỏ với những vùng nôngnghiệp rải rác phì nhiêu. Những nước nhỏ này nay đã bị diệt vong. Nhưng từ đầucông nguyên, những nước này có một nền văn hóa khá cao, chịu ảnh hưởng Ba Tư,Ấn Độ và Trung Hoa. Nước đáng chú ý nhứt là nước Qui Tư. Nước này giỏi vềâm nhạc và vũ khúc. Nhạc công đội khăn đen, mặc y phục bằng lụa đỏ, tay áo thêu.Bản nhạc của họ có nhiều tên thơi mộng Trò chơi giấu kim thoa, Người ngọcchuyền ly rượu, v.v... Khi hòa tấu, có bốn người biểu diễn ca vũ. Ở vùng núinước Qui Tư có những ngọn suối đàn. Nước nhỏ xuống đá từng giọt phát âm bổngtrầm. Mỗi năm một lần các nhạc sĩ đến lắng nghe để phổ thành nhạc.Phụ nữ nước Qui Tư rất đẹp. Gương mặt tròn, đều đặn. Y phục đặc biệt là nhiềukiểu, nhiều màu, thêu thùa khéo léo. Đàn ông mặc áo trắng viền xanh hoặc xanhviền trắng. Đàn bà mặc hai kiểu áo: tay rộng và tay chật. Áo trắng bâu xanh. Áođen có thêu hình màu xanh trắng. Áo dài xanh viền vàng hoặc có sọc vàng. Phảichăng đó là những màu nghê thường?Vậy, căn cứ vào khoa khảo cổ và sử học, ta có thể cho khúc Nghê Thường vũ ylà một ca vũ khúc Ấn Độ truyền sang. Trên con đường phiêu lưu bằng con đườngtơ lụa trước khi truyền sang Trung Hoa, khúc ca vũ này đã bị các sắc tộc dọcđường biến cải ít nhiều. Và khi đến Trung Hoa thì nó được chấn chỉnh lại cho hợpvới dân tộc tính Trung Hoa do một nhà vua phong lưu tài tử, ăn chơi rất mực ...

Tài liệu được xem nhiều: