Ghẹ xanh thương phẩm: vốn nhỏ, lãi lớn
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 115.87 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sau thành công của đề tài: Sản xuất giống ốc Hương và bàn giao qui trình công nghệ nuôi ốc Hương thương phẩm cho các tỉnh miền Trung và Nam Bộ của Tiến sỹ, Phó Giám đốc Nguyễn Thị Xuân Thu,Trung tâm nghiên cứu Thủy sản III đang tiếp tục triển khai hàng loạt đề tài nuôi biển có giá trị kinh tế và thương mại : Sản xuất giống và nuôi Cua Biển (do thạc sỹ Nguyễn Cơ Thạch chủ trì) ; Sản xuất và nuôi thử nghiệm Bào Ngư, Cầu Gai (do TS. Lê Quốc Minh chủ trì);...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ghẹ xanh thương phẩm: vốn nhỏ, lãi lớn Ghẹ xanh thương phẩm: vốn nhỏ, lãi lớnSau thành công của đề tài: Sản xuất giống ốc Hương và bàn giao quitrình công nghệ nuôi ốc Hương thương phẩm cho các tỉnh miềnTrung và Nam Bộ của Tiến sỹ, Phó Giám đốc Nguyễn Thị XuânThu,Trung tâm nghiên cứu Thủy sản III đang tiếp tục triển khaihàng loạt đề tài nuôi biển có giá trị kinh tế và thương mại : Sản xuấtgiống và nuôi Cua Biển (do thạc sỹ Nguyễn Cơ Thạch chủ trì) ; Sảnxuất và nuôi thử nghiệm Bào Ngư, Cầu Gai (do TS. Lê Quốc Minhchủ trì); Dự án hợp tác nuôi Hải Sâm (do thạc sỹ Rayier Pitt chủtrì). Ðặc biêt đề tài Sản xuất giống và nuôi thương phẩm Ghẹ Xanh(Portunus Pelagicus) do TS. Nguyễn Thị Bích Thúy chủ trì đang mởra triển vọng lớn đối với vùng nước bị ô nhiẽm do nuôi tôm, khôngnhững giúp bà con ngư dân xóa đói giảm nghèo mà còn tạo ra sảnphẩm có giá trị xuất khẩu, thu nhiều ngoại tệ. Hiện Trung tâmNCTS III đã bước đầu thành công trong việc sản xuất giống GhẹXanh, tháng 1-2003 đã hỗ trợ bà con ngư dân ở xã Xuân Hòa, huyệnSông Cầu tỉnh Phú Yên 12 vạn con giống để nuôi thí điểm tại sáuđìa nuôi. Rút kinh nghiêm đề tài ốc Hương, theo Tiến sĩ Thúy,Trung tâm sẽ chỉ chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho các địaphương khi nào bà con ngư dân hoàn toàn làm chủ qui trình và kỹthuật nuôi Ghẹ Xanh trong ao đìa.Huyện Sông Cầu, Phú Yên những năm trước liên tục trúng mùa Tôm Sú,nhưng do khai thác liên tục, nguồn nước bị ô nhiễm, mấy vụ nay nghềnuôi tôm thất thu. Hai năm trước, một đìa nuôi tôm 4000 mét vuông giátới một trăm năm mươI triệu đồng, nay không nổi dăm chục triệu. Nhiềugia đình không dám thả tôm, vì tôm bị bệnh chết hàng loạt. Việc chuyểnhướng nuôi Ghẹ Xanh thương phẩm trên các ao đìa nuôi tôm, hoặc nuôixen kẽ giữa tôm sú và ghẹ xanh sẽ mở ra khả năng phát triển nghề nuôibiển bền vững ở vung bãi ngang không chỉ cho xã Xuân Hòa mà cho cảhuyện Sông Cầu và cả tỉnh Phú Yên. Theo ông Nguyễn Khắc Tân, phógiám đốc Trung tâm Khuyến ngư Phú Yên, nếu dự án nuôi Ghẹ Xanhcủa tiến sỹ Nguyễn Thị Bích Thúy thành công, Phú Yên sẽ huy độnghơn 3000 ha ao đìa để nuôi Tôm Sú xen ghẹ hoăc nuôi ghẹ thươngphẩm.Tính khả thi của dự án nuôi Ghẹ Xanh càng có cơ sở được người dânSông Cầu đón nhận khi Công ty Starbay của Anh đang kí hợp đồng vớicác thương lái thu mua ghẹ lột đưa về các nhà máy đông lạnh ở NhaTrang chế biến hàng xuất khẩu. Vào thời điểm đầu tháng 3/2003, một kgGhẹ Xanh giá mua là 20.000 đồng, trong khi đó một kg ghẹ lột giá cóthể gấp bốn lần (80.000đ/kg). Bí quyết cho ghẹ trở thành ghẹ lột đã đượcnhiều ngư dân ở xã Xuân Hòa huyện Sông Cầu khám phá. Muốn cónhiều ghẹ lột xuất khẩu, nhất thiết phải có vùng sản xuất ghẹ tập trung.Sông Cầu phải chăng sẽ là huyện tiên phong sản xuất Ghẹ Xanh thươngphẩm của cả nước?Một số vấn đề kỹ thuật nuôi ghẹ xanh trong đìa1. Tẩy dọn ao đìaAo đìa cần được chuẩn bị theo các bước sau:ủ vôi với phân hữu cơ đã hoai (phân chim, gà hoặc trâu bò) trongkhoảng 10-15 ngày (Lượng phân hữu cơ là 5 kg/100 m2 và lượng vôitrộn là 20 kg/100 m2 hoặc 25 kg/100 m2 đối với những đìa không phơinắng được); Xả cạn nước trong đìa; Cào sạch lớp bùn trên mặt đìa; Bónphân và vôi đã ủ vào đìa; Cày và phơi nắng đìa khoảng 7 15 ngày; Sauđó lấy nước vào đìa qua lưới chắn (mắt lưới nhỏ) để tránh địch hại vàođìa; Ðể lắng nước trong đìa 3 4 ngày, sau đó xả cạn, lấy nước lại vào đìacho tới 80 120 cm; Sau 2-3 ngày xử lý nước bằng thuốc tím với liềulượng 5ppm (5 kg/1000 m2); Sau 3 - 4 ngày tiến hành gây màu nướctrong đìa; Ngày đầu bón phân u rê với lượng 0,5 - 1ppm (0,5 - 1 kg/1000m2); Ngày thứ hai bón NPK với lượng 0,5 -1ppm (0,5 - 1 kg/1000 m2);Sau 2 3 ngày khi nước trong đìa lên màu thì tiến hành thả ghẹ bột.2. Thả và ương nuôi ghẹ- Khi thả ghẹ bột xuống đìa cần phải kiểm tra độ muối và nhiệt độ ởtrong đìa và nước trong thùng vận chuyển ghẹ.- Cấp nước từ từ trong đìa vào thùng vận chuyển trong khoảng 20 40phút để ghẹ bột làm quen với môi trường sống, sau đó thả ghẹ vào đìa.- Mật độ thả là 5 6 con/m2.Thức ăn ương ghẹ bộtTrong 20 ngày đầu : thức ăn ương ghẹ bột gồm các loại cá, ruốc, tômnhỏ hấp chín và cà qua rổ nhựa, sau đó hoà đều với nước tạt khắp đìa.Thức ăn được tính theo diện tích đìa với lượng cho ăn như sau :3 ngày đầu lượng cho ăn là 0,6 g/ m2; 3 ngày tiếp theo là 0,8 g/m2; 3ngày tiếp theo là 1 g/m2; 6 ngày tiếp theo là 1,2 g/m2; 5 ngày tiếp theolà 1,5 g/m2.Trong 10 ngày tiếp theo thức ăn cho ghẹ là các loại cá, ruốc, cua ghẹ giã(đâm) nhỏ hoà với nước tạt khắp đìa.Thức ăn được tính theo khối lượng ghẹ và lượng cho ăn là 25% tổngkhối lượng ghẹ nuôi, tương đương với lượng cho ăn là 3 kg/1000m2Thức ăn nuôi ghẹ trong 2 tháng sau khi ương- Sau 1 tháng ương nuôi, khối lượng ghẹ đạt trung bình 5-7 g/con- Thức ăn nuôi ghẹ là các loại cá, cua ghẹ, quy băm nhỏTháng nuôi đầu tiên : lượng cho ăn là 20% tổng khối lượng ghẹ nuôi- Tương đương với lượng cho ăn là 4 kg/1000 ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ghẹ xanh thương phẩm: vốn nhỏ, lãi lớn Ghẹ xanh thương phẩm: vốn nhỏ, lãi lớnSau thành công của đề tài: Sản xuất giống ốc Hương và bàn giao quitrình công nghệ nuôi ốc Hương thương phẩm cho các tỉnh miềnTrung và Nam Bộ của Tiến sỹ, Phó Giám đốc Nguyễn Thị XuânThu,Trung tâm nghiên cứu Thủy sản III đang tiếp tục triển khaihàng loạt đề tài nuôi biển có giá trị kinh tế và thương mại : Sản xuấtgiống và nuôi Cua Biển (do thạc sỹ Nguyễn Cơ Thạch chủ trì) ; Sảnxuất và nuôi thử nghiệm Bào Ngư, Cầu Gai (do TS. Lê Quốc Minhchủ trì); Dự án hợp tác nuôi Hải Sâm (do thạc sỹ Rayier Pitt chủtrì). Ðặc biêt đề tài Sản xuất giống và nuôi thương phẩm Ghẹ Xanh(Portunus Pelagicus) do TS. Nguyễn Thị Bích Thúy chủ trì đang mởra triển vọng lớn đối với vùng nước bị ô nhiẽm do nuôi tôm, khôngnhững giúp bà con ngư dân xóa đói giảm nghèo mà còn tạo ra sảnphẩm có giá trị xuất khẩu, thu nhiều ngoại tệ. Hiện Trung tâmNCTS III đã bước đầu thành công trong việc sản xuất giống GhẹXanh, tháng 1-2003 đã hỗ trợ bà con ngư dân ở xã Xuân Hòa, huyệnSông Cầu tỉnh Phú Yên 12 vạn con giống để nuôi thí điểm tại sáuđìa nuôi. Rút kinh nghiêm đề tài ốc Hương, theo Tiến sĩ Thúy,Trung tâm sẽ chỉ chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho các địaphương khi nào bà con ngư dân hoàn toàn làm chủ qui trình và kỹthuật nuôi Ghẹ Xanh trong ao đìa.Huyện Sông Cầu, Phú Yên những năm trước liên tục trúng mùa Tôm Sú,nhưng do khai thác liên tục, nguồn nước bị ô nhiễm, mấy vụ nay nghềnuôi tôm thất thu. Hai năm trước, một đìa nuôi tôm 4000 mét vuông giátới một trăm năm mươI triệu đồng, nay không nổi dăm chục triệu. Nhiềugia đình không dám thả tôm, vì tôm bị bệnh chết hàng loạt. Việc chuyểnhướng nuôi Ghẹ Xanh thương phẩm trên các ao đìa nuôi tôm, hoặc nuôixen kẽ giữa tôm sú và ghẹ xanh sẽ mở ra khả năng phát triển nghề nuôibiển bền vững ở vung bãi ngang không chỉ cho xã Xuân Hòa mà cho cảhuyện Sông Cầu và cả tỉnh Phú Yên. Theo ông Nguyễn Khắc Tân, phógiám đốc Trung tâm Khuyến ngư Phú Yên, nếu dự án nuôi Ghẹ Xanhcủa tiến sỹ Nguyễn Thị Bích Thúy thành công, Phú Yên sẽ huy độnghơn 3000 ha ao đìa để nuôi Tôm Sú xen ghẹ hoăc nuôi ghẹ thươngphẩm.Tính khả thi của dự án nuôi Ghẹ Xanh càng có cơ sở được người dânSông Cầu đón nhận khi Công ty Starbay của Anh đang kí hợp đồng vớicác thương lái thu mua ghẹ lột đưa về các nhà máy đông lạnh ở NhaTrang chế biến hàng xuất khẩu. Vào thời điểm đầu tháng 3/2003, một kgGhẹ Xanh giá mua là 20.000 đồng, trong khi đó một kg ghẹ lột giá cóthể gấp bốn lần (80.000đ/kg). Bí quyết cho ghẹ trở thành ghẹ lột đã đượcnhiều ngư dân ở xã Xuân Hòa huyện Sông Cầu khám phá. Muốn cónhiều ghẹ lột xuất khẩu, nhất thiết phải có vùng sản xuất ghẹ tập trung.Sông Cầu phải chăng sẽ là huyện tiên phong sản xuất Ghẹ Xanh thươngphẩm của cả nước?Một số vấn đề kỹ thuật nuôi ghẹ xanh trong đìa1. Tẩy dọn ao đìaAo đìa cần được chuẩn bị theo các bước sau:ủ vôi với phân hữu cơ đã hoai (phân chim, gà hoặc trâu bò) trongkhoảng 10-15 ngày (Lượng phân hữu cơ là 5 kg/100 m2 và lượng vôitrộn là 20 kg/100 m2 hoặc 25 kg/100 m2 đối với những đìa không phơinắng được); Xả cạn nước trong đìa; Cào sạch lớp bùn trên mặt đìa; Bónphân và vôi đã ủ vào đìa; Cày và phơi nắng đìa khoảng 7 15 ngày; Sauđó lấy nước vào đìa qua lưới chắn (mắt lưới nhỏ) để tránh địch hại vàođìa; Ðể lắng nước trong đìa 3 4 ngày, sau đó xả cạn, lấy nước lại vào đìacho tới 80 120 cm; Sau 2-3 ngày xử lý nước bằng thuốc tím với liềulượng 5ppm (5 kg/1000 m2); Sau 3 - 4 ngày tiến hành gây màu nướctrong đìa; Ngày đầu bón phân u rê với lượng 0,5 - 1ppm (0,5 - 1 kg/1000m2); Ngày thứ hai bón NPK với lượng 0,5 -1ppm (0,5 - 1 kg/1000 m2);Sau 2 3 ngày khi nước trong đìa lên màu thì tiến hành thả ghẹ bột.2. Thả và ương nuôi ghẹ- Khi thả ghẹ bột xuống đìa cần phải kiểm tra độ muối và nhiệt độ ởtrong đìa và nước trong thùng vận chuyển ghẹ.- Cấp nước từ từ trong đìa vào thùng vận chuyển trong khoảng 20 40phút để ghẹ bột làm quen với môi trường sống, sau đó thả ghẹ vào đìa.- Mật độ thả là 5 6 con/m2.Thức ăn ương ghẹ bộtTrong 20 ngày đầu : thức ăn ương ghẹ bột gồm các loại cá, ruốc, tômnhỏ hấp chín và cà qua rổ nhựa, sau đó hoà đều với nước tạt khắp đìa.Thức ăn được tính theo diện tích đìa với lượng cho ăn như sau :3 ngày đầu lượng cho ăn là 0,6 g/ m2; 3 ngày tiếp theo là 0,8 g/m2; 3ngày tiếp theo là 1 g/m2; 6 ngày tiếp theo là 1,2 g/m2; 5 ngày tiếp theolà 1,5 g/m2.Trong 10 ngày tiếp theo thức ăn cho ghẹ là các loại cá, ruốc, cua ghẹ giã(đâm) nhỏ hoà với nước tạt khắp đìa.Thức ăn được tính theo khối lượng ghẹ và lượng cho ăn là 25% tổngkhối lượng ghẹ nuôi, tương đương với lượng cho ăn là 3 kg/1000m2Thức ăn nuôi ghẹ trong 2 tháng sau khi ương- Sau 1 tháng ương nuôi, khối lượng ghẹ đạt trung bình 5-7 g/con- Thức ăn nuôi ghẹ là các loại cá, cua ghẹ, quy băm nhỏTháng nuôi đầu tiên : lượng cho ăn là 20% tổng khối lượng ghẹ nuôi- Tương đương với lượng cho ăn là 4 kg/1000 ...
Gợi ý tài liệu liên quan:
-
78 trang 344 2 0
-
Tổng quan về việc sử dụng Astaxanthin trong nuôi trồng thủy sản
10 trang 250 0 0 -
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 243 0 0 -
225 trang 222 0 0
-
Tìm hiểu các kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản (Tập 1): Phần 1
66 trang 198 0 0 -
2 trang 198 0 0
-
Triển khai chương trình phát triển bền vững quốc gia trong ngành thủy sản
7 trang 183 0 0 -
13 trang 181 0 0
-
91 trang 175 0 0
-
8 trang 155 0 0