Thông tin tài liệu:
Bệnh nhân bỏng sâu, đặc biệt là trẻ em, có tỷ lệ tử vong rất cao vì vết thương khó hồi phục. Phẫu thuật ghép da (tự thân hoặc đồng loại) đã cho kết quả rất khả quan. Phương pháp này đang được thực hiện rất thành công tại Viện Bỏng quốc gia. Theo các chuyên gia, các ca bỏng nhẹ (độ 1-2) có thể tự khỏi trong vòng 10 ngày. Ở mức độ nặng hơn (độ 3), vết bỏng có thể tự liền sau 3 tuần nhưng để lại sẹo. Đây là những trường hợp được gọi chung...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ghép da - thêm cơ hội sống cho bệnh nhân bỏng sâu Ghép da - thêm cơ hội sống cho bệnh nhân bỏng sâuBệnh nhân bỏng sâu, đặc biệt là trẻ em, có tỷ lệ tử vong rất cao vì vết thươngkhó hồi phục. Phẫu thuật ghép da (tự thân hoặc đồng loại) đã cho kết quả rấtkhả quan. Phương pháp này đang được thực hiện rất thành công tại ViệnBỏng quốc gia.Theo các chuyên gia, các ca bỏng nhẹ (độ 1-2) có thể tự khỏi trong vòng 10 ngày.Ở mức độ nặng hơn (độ 3), vết bỏng có thể tự liền sau 3 tuần nhưng để lại sẹo.Đây là những trường hợp được gọi chung là bỏng nông, cơ thể vẫn đủ khả năng táitạo da và không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống.Với trường hợp bỏng nặng (độ 4-5), diện tích tổn thương rộng, vết bỏng sâu (cóthể chiếm 40-50% diện tích cơ thể), toàn bộ lớp mầm da bị hủy hoại nên không cótế bào da thay thế. Điều này ảnh hưởng rất nặng đến người bệnh, nguy cơ tử vongrất cao, nhất là với trẻ em. Trong trường hợp này, việc ghép da được chỉ địnhnhằm giúp cho vết bỏng được bảo vệ, tránh vi khuẩn xâm nhập, vết thương dễ hồiphục hơn.Với trẻ em đã bị bỏng sâu, việc lấy và ghép da tự thân (lấy da ở phần lành của cơthể để ghép che phủ vết thương) sẽ rất hạn chế do không đủ lượng da lành bù đắp.Để khắc phục khó khăn về nguồn da ghép, Viện Bỏng quốc gia đ ã sử dụng dađồng loại tươi (lấy từ bố mẹ hoặc người thân cùng huyết thống) để che phủ tạmthời phần vết thương. Đây là phương pháp có nhiều ưu điểm: thời gian da ghépbám sống dài (trung bình là 19 ngày, tối đa có thể tới 41 ngày), da ghép không phụthuộc vào sự tương hợp nhóm máu giữa người cho và nhận. Đây là những điềukiện rất thuận lợi giúp cho trẻ có thể hồi phục vết thương.Kỹ thuật ghép không quá phức tạp nhưng cũng đòi hỏi những yêu cầu chuyên mônkhắt khe. Trước tiên, các bác sĩ phải lấy một lượng da nhỏ của bệnh nhân, căngrộng ra bằng cách rạch những đường nhỏ, tạo thành tấm lưới che phủ lên vếtthương. Miếng da tự thân này cũng có thể được tạo thành những miếng nhỏ chelên vết thương (gọi là ghép kiểu tem thư). Da đồng loại tươi được bao phủ lên trêncùng, như một chiếc áo bảo vệ vòng ngoài. Lượng da ghép chỉ được phép lấy đủmức cần thiết, da lấy phải rất mỏng, đảm bảo an toàn cho việc tái tạo, tránh gâytổn thương cho vùng bị lấy da. Da ghép sống được nhờ sự thẩm thấu chứ khôngđược nuôi trực tiếp bằng mạch máu. Vì vậy, độ mỏng của da là yếu tố quan trọnggiúp nó bám sống.Việc sử dụng ghép da đồng loại tươi của người lớn trên bệnh nhi bỏng sâu đã làmtăng diện tích che phủ. Trung bình 1% diện tích da người lớn che phủ 3,2% diệntích tổn thương ở trẻ em. Các nghiên cứu cho thấy, kỹ thuật này đã nâng tỷ lệ bệnhnhi bị bỏng sâu, diện tích bỏng rộng được cứu sống lên 90%. Tỷ lệ bệnh nhi bỏngbị nhiễm khuẩn huyết được cứu sống cũng đạt gần 80%. Đây là tỷ lệ rất cao so vớithời điểm những năm 2001 trở về trước: chỉ 20-30% bệnh nhi bỏng sâu, rộng đượccứu sống.