Danh mục

Giải mã chữ “Thủy” trong văn hóa Việt

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 510.74 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Không phải ngẫu nhiên, số lần xuất hiện của từ ngữ sông nước trên cửa miệng của người Việt nhiều đến vậy!Hầu như trở thành một nếp nghĩ quen thuộc, rất quen thuộc, không cần bàn cãi, khi đề cập đến văn hóa Việt Nam, người ta hay nhắc đến các yếu tố sau: nông nghiệp trồng lúa nước, yêu nước nồng nàn, cần cù lao động, trọng tình nghĩa, dùng quan hệ gia đình để giao tiếp xã hội....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải mã chữ “Thủy” trong văn hóa ViệtGiải mã chữ “Thủy”trong văn hóa ViệtKhông phải ngẫu nhiên, số lần xuất hiện của từ ngữ sôngnước trên cửa miệng của người Việt nhiều đến vậy!Hầu như trở thành một nếp nghĩ quen thuộc, rất quen thuộc,không cần bàn cãi, khi đề cập đến văn hóa Việt Nam, ngườita hay nhắc đến các yếu tố sau: nông nghiệp trồng lúa nước,yêu nước nồng nàn, cần cù lao động, trọng tình nghĩa, dùngquan hệ gia đình để giao tiếp xã hội.Hiển nhiên, các đúc kết này không sai nhưng nghiêm ngặt mànói cả khu vực Đông Nam Á, nói rộng ra, dân tộc nào trênthế giới lại không có ít nhiều các đặc điểm ấy. Và dù cho cólấy tiêu chí đậm/nhạt chứ không phải dựa vào thế đối lậpcó/không dùng làm căn cứ để xác định thì cũng thật khó lòngmà chấp nhận cách biện giải có phần đơn giản này. Và cũngthật hiển nhiên, đi tìm những hằng thể văn hóa trừu tượngkhó hơn nhiều những đặc điểm có tính vật chất dễ quan sátnhư chiếc áo dài, chiếc nón lá hay các món ăn cụ thể.Thác nước phong thuỷ là thú chơi được nhiều người Việt ưathích.Thác nước phong thuỷ là thú chơi được nhiều người Việt ưathích.Không biết bạn có để ý không, ngày Tết bà con ta hay chúcnhau công việc làm ăn trôi chảy, thuận buồm xuôi gió… tiềnvô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin, hoặctrong cuộc sống để động viên nhau: nào cố gắng vượt qua gióto sóng lớn, hành trình đời người lúc khó khăn phải lên thácxuống ghềnh chứ không phải lúc nào cũng xuôi chèo mátmái, nào hãy vững tay chèo, cùng thoát khỏi ao làng, sôngrạch để hướng ra biển lớn… trong thời buổi kinh tế khủnghoảng để khỏi chết chìm cần phải có những phao cứu sinh…Không phải ngẫu nhiên, số lần xuất hiện của từ ngữ sôngnước trên cửa miệng của người Việt nhiều đến vậy!Theo quan niệm của ngành khoa học tri nhận, một ngànhkhoa học chuyên nghiên cứu các khả năng tinh thần của conngười, trong tương tác với môi trường tự nhiên thì sự vật hiệntượng nào gần gũi nhất đối với con người thì xuất hiện trướcnhất trong tâm trí họ; sự vật, hiện tượng nào gần gũi nhất thìxuất hiện nhiều nhất, hiểu là có cách phân loại hoặc địnhdanh chi tiết nhất, tần suất xuất hiện cao nhất trong giao tiếpvà sự vật, sự kiện nào gần gũi nhất thì có tầm tác động caonhất.Dễ thấy, do nhiều lý do khác nhau, môi trường địa lý từ Namchí Bắc, từ Đông sang Tây của Việt Nam, đâu đâu cũng cósông nước, và con người Việt Nam gắn bó thiết thân chẳngnhững về những ứng xử vật chất mà cả đời sống tinh thần vớichúng. Đó là lý do giải thích vì sao dấu ấn sông nước và cácthực thể liên quan đến sông nước khá đậm nét trong tư duycủa người Việt. Về mặt ngôn ngữ, có thể xây dựng một cuốntừ điển về sự chuyển nghĩa của từ ngữ, từ trường sông nướcsang các trường con người, xã hội, cuộc đời và ngược lại.Nói khác, người Việt đã dùng những hiểu biết về sông nướcđể phóng chiếu lên cuộc đời cũng như dùng những trảinghiệm của chính cơ thể mình để ngược chiếu trở lại sôngnước.Hãy nghe: chưa chi, hắn đã lên nước phách lối; biết mình thếyếu, chị ta xuống nước năn nỉ; đâu phải khi không mà nó bỏnước nhỏ… dạo này tên tuổi hắn chìm lỉm (nghỉm), chìmdưới bùn, chìm dưới đáy bùn sâu… Theo đó, bạn có nhận rakhông, vận động, trạng thái tính chất của nước cũng chính làtrạng thái, cách thế ứng xử của con người?… Từ nguồn chỗbắt đầu của sông xuôi về biển cả với nguồn đào tạo, tạonguồn, nguồn sống, nguồn sáng tạo, nguồn cảm hứng, nguồndinh dưỡng, nguồn vốn, phong trào về nguồn… thậm chínguồn điện, nguồn thức ăn, nguồn cá, nguồn lúa gạo… cómột sự quan hệ về ngữ nghĩa, rất đáng ngạc nhiên, hay từcách định vị các vùng khác nhau theo vị trí nằm ngang củasông lại được dùng để gọi tên các tầng lớp xã hội: thượnglưu, trung lưu, hạ lưu.Theo chiều hướng ngược lại, dễ dàng tìm thấy nhiều ẩn dụcủa sông nước có nguồn gốc từ thân xác hoặc vận động củacon người như lòng sông, mặt sông, chân nước, rốn nước…hoặc nước nhảy, nước bò, nước rông… Thậm chí, con ngườicòn dùng cơ thể mình làm thước đo: nước dưới lòng bànchân, nước tới mắt cá, nước tới ống quyển…Ngay từ năm 1970, trong khi nghiền ngẫm về lịch trình tưtưởng của dân tộc, học giả Cao Xuân Huy đã tìm thấy hai đặcđiểm quan trọng của nước là tính thích nghi và cân bằng, vàcụ coi đây là hai đức tính của dân tộc Việt Nam. Nói theokhoa học tri nhận, trong quá trình tương tác với tự nhiên,chính nhà đạo học đã dựa vào một bình diện trải nghiệm nàyđể nhận thức một bình diện khác. Nghĩa là, thông qua nhữngthuộc tính cụ thể, hữu hình, vật chất của môi trường sôngnước để khám phá ra đức tính trừu tượng, vô hình, phi vậtchất khó cảm nhận của dân tộc mình.Những trải nghiệm tự nhiên có tính chất ẩn dụ này có thể tìmthấy sự biểu hiện rất phong phú trong tiếng Việt. Quả tínhthích nghi, không có sự vật nào hơn được nước, nước sẵnsàng mang hình dáng của bất cứ vật gì chứa nó: chai nước, lunước, gáo nước… giếng nước, ao nước, vũng nước… thếnhưng không có nghĩa là không có bản sắc riêng, trung dunghay ba phải mà thích nghi theo thế chủ động, thích nghi là đểbiến cải và chan hòa cùng môi trường. Lại nữa, nước bao giờcũng vươn tới trạng thái cân bằng, dân gian Việt Nam từ xưađã mô phỏng đã ứng dụng rất hữu hiệu đặc điểm này vàocuộc sống và đó không chỉ là tiêu chuẩn đo đạc trong xâydựng, trong xác lập mặt phẳng ruộng đồng mà còn là mộttrạng thái tinh thần cần có của một con người và một dân tộc.Đặc điểm về văn hóa nhận thức này, có lẽ với nét khu biệt,cần được chú ý, nghiên cứu sâu hơn. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: