Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001-2005) đã đi qua, đánh dấu những thành tựu mang tính toàn diện và quyết định cho sự chuyển mình của đất nước. Những nỗ lực bền bỉ trong đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính, tiền tệ và đầu tư đã tạo dựng được một môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông thoáng và minh bạch, tạo điều kiện thu hút tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải pháp huy động vốn đầu tư (trong và ngoài nước) cho phát triển kinh tế
Giải pháp huy động vốn đầu tư (trong và ngoài nước) cho phát triển kinh tế
Trần Bắc Hà - TGĐ NH Đầu tư và Phát triển VN
Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm
(2001-2005) đã đi qua, đánh dấu những thành tựu mang tính toàn diện và
quyết định cho sự chuyển mình của đất nước. Những nỗ lực bền bỉ
trong đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về tài chính, tiền tệ và đầu tư đã tạo dựng
được một môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông thoáng và minh
bạch, tạo điều kiện thu hút tối đa các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Trong 5 năm qua, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân đạt trên 35% GDP, vượt
mục tiêu đã đề ra tại Đại hội Đảng IX (31-32%GDP). Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, mức
huy động các tiềm năng trong nước đạt 70%, vượt mục tiêu Đại hội IX - 66%. Nhờ vậy, tổng sản
phẩm quốc nội GDP đã đạt mức tăng trưởng cao và liên tục, đặc biệt, năm 2005 đạt mức kỷ lục
8,4%.
Phát huy những thành tích đã đạt được trong tăng trưởng kinh tế và huy động nguồn vốn cho
phát triển, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra mục tiêu cho giai đoạn 2006 - 2010 tăng trưởng GDP
bình quân trên 8%/năm. Để thực hiện được mục tiêu này, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển
kinh tế 5 năm tới lên đến 140 tỷ USD; tỷ trọng huy động vốn đầu tư xã hội trung bình cả giai
đoạn là 38% - 40% GDP, với tốc độ tăng trung bình 12% - 13%/năm, trong đó nguồn vốn trong
nước chiếm từ 60% - 65%.
“Giải pháp huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước cho phát triển kinh tế”. Dưới đây xin
đi thẳng vào 3 nội dung chính:
1. Nội dung thứ nhất: Về những thành tựu và tiến bộ của hệ thống ngân hàng và của
BIDV
Trong giai đoạn 2001-2005, Ngân hàng Nhà nước đã thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, linh
hoạt, về cơ bản đã đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển của hệ thống các TCTD. Việc điều hành
chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, dự
trữ bắt buộc đã tăng cường khả năng điều tiết vốn khả dụng của các NHTM, qua đó nâng cao
khả năng cung ứng vốn của hệ thống NHTM cho nền kinh tế.
Cùng với đó, NHNN đã thực hiện điều chỉnh hành lang pháp lý, cơ chế chính sách theo hướng
tiếp cận với các thông lệ quốc tế, nhất là trong điều hành lãi suất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, tín
dụng và hoạt động thanh toán. Luật Các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi vào giữa năm 2004,
kèm theo hàng loạt những quy định chặt chẽ đối với các TCTD trong việc đảm bảo các tỷ lệ an
toàn trong hoạt động, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro. Bên cạnh đó những nỗ lực lớn trong việc
phát triển ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả
hoạt động tiền tệ, tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư thông qua kênh trung gian tài chính (hệ thống ngân
hàng) vào nền kinh tế chiếm trung bình từ 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bình quân tăng
trưởng huy động vốn (và dư nợ cho vay nền kinh tế) giai đoạn 2001-2005 đạt mức khá cao, từ
20-25% hàng năm. Cùng với nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước, khu vực dân cư và tư
nhân, ODA, FDI và kiều hối, nguồn vốn qua kênh NHTM thực sự đóng vai trò quan trọng trong
việc tài trợ cho tín dụng đầu tư phát triển nền kinh tế.
Giai đoạn 2001-2005 cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với BIDV. Qua việc thực hiện thành
công đề án tái cơ cấu, liên tục trong nhiều năm, BIDV đã đóng góp một phần quan trọng trong
kết quả chung của hệ thống NHTM với thị phần huy động vốn và dư nợ cho vay từ 15 - 20%.
Nguồn vốn huy động đến cuối năm 2005 của BIDV ước đạt 81.000 tỷ VND, tăng hơn 2 lần so
với năm 2001, bình quân tăng 22%/năm. Các yếu tố về đối tượng khách hàng, kỳ hạn và loại
tiền cũng có những cải thiện tích cực. Đặc biệt, huy động vốn từ khu vực dân cư chiếm 52,8%
tổng huy động, là nguồn vốn ổn định và quan trọng đối với hoạt động của BIDV. Quy mô đầu tư
năm 2005 của BIDV cho nền kinh tế khoảng 90 nghìn tỷ đồng và ước tính trong giai đoạn 2006 -
2010 tốc độ phát triển về tài trợ vốn cho nền kinh tế vẫn sẽ luôn tăng trưởng ở mức 20%.
Trong định hướng phát triển ngành ngân hàng giai đoạn 2006 - 2010 đã xác định toàn Ngành
cần duy trì tốc độ tăng trưởng huy động vốn, tín dụng từ 22-25%/năm để góp phần thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng. Như vậy, chỉ tiêu này tiếp tục cao hơn tốc độ tăng vốn đầu tư toàn xã hội
(dự kiến 12-13%). Đây được xem là mức phấn đấu khá cao đối với hệ thống ngân hàng trong
điều kiện huy động vốn ngày càng gặp nhiều khó khăn, tập trung vào 4 vấn đề:
Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao trong nhiều năm nhưng thu nhập
quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và tích luỹ trong dân cư tuy đã tăng
nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết kiệm và sử dụng
các dịch vụ của Ngân hàng. Bên cạnh đó, quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ bé, hoạt
động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng; nhu cầu đầu tư cao trong khi khả năng tự tích luỹ, tài trợ
thấp.
Hai là, yếu tố giá cả tăng mạnh trong 2 năm gần đây gây ra tâm lý e ngại gửi tiền VND dài hạn
vào hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc người dân chuyển sang đầu tư vào bất động sản, hoặc
tích trữ dưới dạng USD và vàng.
Ba là, xu hướng tăng lãi suất USD tại Mỹ đã làm gia tăng tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế,
gây sức ép rất lớn lên lãi suất đối với Đồng Việt Nam và gây nhiều khó khăn cho công tác huy
động vốn.
Bốn là, mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao, việc huy động vốn của các NHTM
phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt
động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính.
Từ phân tích và lường đón những yếu tố thuận lợi cũng như bất lợi, BIDV đã chủ động xây dựng
Chiến lược phát triển gi ...