Danh mục

GIẢM ĐAU

Số trang: 26      Loại file: pdf      Dung lượng: 217.46 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 13,000 VND Tải xuống file đầy đủ (26 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đau là một cảm nhận khó chịu về cảm giác và cảm xúc do mô bị đe dọa và/hoặc bị tổn thương thực thể gây nên, hoặc do các tình trạng được người bệnh cảm nhận là đau (định nghĩa của Hiệp hội quốc tế nghiên cứu đau). Ngay cả trẻ bé nhất, kể cả trẻ đẻ non, cũng đã cảm nhận được đau và vì vậy cần được giảm đau thích hợp. Trong điều trị từ đau nhẹ đến vừa, thuốc được coi hàng đầu là paracetamol và một vài thuốc kháng viêm không steroid như ibuprofen, diclofenac và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GIẢM ĐAU GIẢM ĐAUĐau là một cảm nhận khó chịu về cảm giác và cảm xúc do mô bị đe dọavà/hoặc bị tổn thương thực thể gây nên, hoặc do các tình trạng được ngườibệnh cảm nhận là đau (định nghĩa của Hiệp hội quốc tế nghiên cứu đau).Ngay cả trẻ bé nhất, kể cả trẻ đẻ non, cũng đã cảm nhận được đau và vì vậycần được giảm đau thích hợp.Trong điều trị từ đau nhẹ đến vừa, thuốc được coi hàng đầu là paracetamolvà một vài thuốc kháng viêm không steroid như ibuprofen, diclofenac vànaproxen.Trường hợp cần giảm đau mạnh hơn, có thể dùng đồng thời acidacetylsalicylic hoặc paracetamol với codein hoặc dextropropoxyphen. Nhưvậy, càng giảm được đau càng có khả năng gặp nhiều tác dụng không mongmuốn, đặc biệt là buồn nôn, táo bón và chóng mặt. Do có nguy cơ tác dụngkhông mong muốn nên cần phải hạn chế dùng acid acetylsalicylic ở trẻ e mvà đặc biệt không dùng cho trẻ dưới một tháng tuổi.Điều trị đau cấp trầm trọng bằng thuốc giảm đau loại opiat khi không cóchống chỉ định đặc hiệu. Morphin là thuốc lựa chọn hàng đầu.Trẻ em cũng phải cho thuốc giảm đau loại opiat trong trường hợp đau nặng.Tuy nhiên điều quan trọng cần biết là các trẻ bé rất nhạy cảm với morphin vàtrẻ đẻ non dễ ngừng hô hấp.Trong phần lớn các trường hợp đau như sau phẫu thuật hoặc sau chấnthương, có thể cho ngay thuốc giảm đau morphin cả liều mà không có nguycơ gây nghiện; cần xem xét riêng biệt những người có nguy cơ cao, trước đãbị nghiện hóa chất.Đau kiểu do thần kinh hoặc kiểu bệnh dây thần kinh như chứng hỏa thống,đau dây thần kinh sau herpes, đau rễ thần kinh, đau u thần kinh, hoặc đau chima, thường cần tới những cách điều trị rất khác nhau so với điều trị đau docảm thụ (tổn thương mô gây ra đau).Đôi khi thuốc kháng động kinh hoặc thuốc chống trầm cảm có thể điều trịcó hiệu quả đau do thần kinh hoặc bệnh thần kinh. Đối với đau sau chảy má udưới màng nhện, loại đau nặng do thần kinh, đôi khi có thể điều trị đượcbằng mexiletin là loại tương tự như lidocain, có tính thấm cao vào trong hệthần kinh trung ương. Tuy nhiên thuốc này có tác dụng không mong muốnmạnh đối với tim nên khó sử dụng.Không được đánh giá thấp vai trò quan trọng của giảm đau thích đáng.Nhiều trường hợp biến chứng hậu phẫu có thể phòng ngừa được nhờ giảmđau thích hợp khiến cho người bệnh bắt đầu vận động được và rời khỏ igiường, làm giảm triệt để nguy cơ nhiễm khuẩn hậu phẫu (ví dụ có thể giả mtriệt để nguy cơ viêm phổi) và nguy cơ biến chứng nghẽn mạch và tắc mạ chsau phẫu thuật được giảm đi rất nhiều nếu người bệnh có thể bắt đầu đượcđiều trị vật lý tích cực sớm nhất sau phẫu thuật.Định nghĩa và cơ chếTheo Hiệp hội quốc tế nghiên cứu đau (IASP), đau được định nghĩa là mộtcảm nhận khó chịu về cảm giác và cảm xúc do mô bị đe dọa và/hoặc bị tổnthương thực thể gây nên, hoặc do các tình trạng được người bệnh cảm nhậnlà đau.Như vậy, đau là một tri giác cá thể và chủ quan, bao gồm các tín hiệu cảmgiác, các cảm nhận xúc cảm và các phản xạ ứng xử. Phải thừa nhận rằng đôikhi đau không có nguyên nhân thực thể rõ rệt. Giảm đau là một vấn đề y họcquan trọng đối với cả hai trạng thái đau cấp và mạn. Đau cũng là một dấuhiệu và triệu chứng quan trọng của bệnh, phải được thầy thuốc xem xét cẩnthận trước khi bắt đầu điều trị chống đau đơn thuần. Vì vậy, phải luôn nhớrằng nếu chỉ chú ý vào giảm đau thôi có thể sẽ bỏ qua một bệnh quan trọngcần được can thiệp điều trị.Chỉ lượng giá cường độ đau thì không đủ, cần phải nhớ là cũng phải lượnggiá kiểu đau, thời gian, tính chất, phân bố đau và cố gắng xác định nguyênnhân nào gây đau. Nên chuẩn bị sẵn một bộ câu hỏi chuẩn để lượng giá đau.Cần phải xem xét hai nguyên nhân gây đau khác nhau, vì sự khác nhau đó làđiều quan trọng cơ bản cho việc lựa chọn cách điều trị. Trong đau theo kiểucảm thụ đau, đau bắt nguồn từ các thụ thể đau ngoại vi bị kích thích/hoạthóa, phản ứng đặc hiệu với hoạt hóa cơ học, hóa học hoặc nhiệt độ. Các thụthể đau này hoạt hóa các sợi thần kinh dẫn truyền (sợi C và sợi delta A) bìnhthường ở thế nghỉ. Trong trường hợp mô bị tổn thương, như viêm, thiếu máucục bộ hoặc xâm nhiễm ung thư ở một mô, sẽ tạo thành các chất kích thíchđau (các chất gây đau) như prostaglandin, leucotrien, cytokin, bradykinin,vv... Có thể tiến hành ức chế loại đau này bằng cách ức chế tạo thành cácchất gây đau đó, ví dụ các thuốc giảm đau tác động ngoại vi. Loại đau docảm thụ đau cũng thường đáp ứng tốt với điều trị bằng các thuốc opiat tácđộng trung ương.Trạng thái đau khác là đau do thần kinh. ở đây, nguồn gốc đau hoặc tổnthương khu trú ngay tại hệ thần kinh trung ương. Kiểu đau này yêu cầu mộtchiến lược điều trị hoàn toàn khác so với đau kiểu cảm thụ đau.Về mặt điều trị bằng thuốc, ta phải nhớ rằng các opiat loại morphin thườngtỏ ra thực tế vô hiệu đối với kiểu đau nặng do thần kinh, nhưng chính cácthuốc đó lại tác động rất tốt đối với đau kiểu cảm thụ.Đau thần kinh n ...

Tài liệu được xem nhiều: