Giáo trình mô hình tài chính công - phần 2
Số trang: 37
Loại file: pdf
Dung lượng: 483.17 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mô hình xác định lợi ích kinh tế trong thị trường không biến dạng Từ chương này trở đi chúng ta sử dụng phương pháp kinh tế để thẩm định các dự án công. Chi phí kinh tế của các yếu tố đầu vào và giá đầu ra có thể chênh lệch nhiều so với con số tài chính. Chẳng hạn các dự án như: cung cấp nước sạch nông thôn, xây dựng trường phổ thông ở vùng sâu, đường nông thôn
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình mô hình tài chính công - phần 2§5. MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG ĐẦU TƯCÔNG5.1 Mô hình xác định lợi ích kinh tế trong thị trường không biến dạngTừ chương này trở đi chúng ta sử dụng phương pháp kinh tế để thẩm định các dự áncông. Chi phí kinh tế của các yếu tố đầu vào và giá đầu ra có thể chênh lệch nhiều so vớicon số tài chính. Chẳng hạn các dự án như: cung cấp nước sạch nông thôn, xây dựngtrường phổ thông ở vùng sâu, đường nông thôn, …thường có giá trị đối với xã hội lớnhơn nhiều so với mức giá tài chính mà người dân chi trả. Nếu dự án điện của chính phủbán với giá thấp hơn giá kinh tế thì coi như chính phủ đã trợ cấp ngầm cho người sửdụng. Hoặc một dự án trả lương cho người lao động cao hơn chi phí kinh tế của lao động,tức là đã trợ cấp cho người lao động. V.v…Lợi ích, chi phí kinh tế và doanh thu, chi phí tài chính quan hệ gắn bó với nhau nhưngkhông thể đồng nhất chúng được. Sự khác biệt giữa giá kinh tế và giá tài chính là khoảnlợi nhuận siêu ngạch được dồn cho một nhóm người nào đó trong xã hội, đồng thời chothấy những thông tin hữu ích về phân phối chi phí và lợi ích. Nói cách khác, sự khác biệtgiữa các giá kinh tế và giá tài chính phản ánh một đối tượng khác ngoài chủ dự án hoặcđược hưởng lợi ích của dự án hoặc gánh chịu chi phí cho dự án. Như thế, khi phân tích tàichính, ta xem xét chủ dự án bỏ ra bao nhiêu tiền và chủ dự án thu về bao nhiêu dòng tiềnròng. Còn khi phân tích kinh tế, chúng ta không chỉ xem xét chủ dự án bỏ ra và thu vềbao nhiêu dòng tiền ròng mà còn xét đến cả lợi ích và chi phí của những đối tượng khôngtrực tiếp tham gia vào dự án. Bằng cách nhận diện các nhóm đối tượng ngoài chủ dự ánđược hưởng lợi từ dự án và các nhóm gánh chịu chi phí của dự án, chúng ta sẽ thu thậpđược những thông tin về động cơ khuyến khích nhóm này ủng hộ còn nhóm khác phảnđối.Trong các nền kinh tế ít méo mó, giá thị trường có thể được dùng làm chi phí cơ hội củacác đầu vào và các đầu ra. Trong nền kinh tế mà giá cả bị bóp méo thì giá thị trườngkhông thể sử dụng để xác định chi phí kinh tế. Mà phân tích kinh tế phải đánh giá đượcđóng góp của dự án đối với phúc lợi xã hội hay lợi ích của toàn thể đất nước. Do đó cầnphải triệt tiêu sự méo mó của giá cả bằng cách sử dụng giá mờ (shadow price) là mức giáphản ánh xấp xỉ chi phí cơ hội và lợi ích của dự án, thay vì dùng giá thị trường.5.1.1 Ba căn cứ quan trọngKhi sử dụng phương pháp kinh tế để thẩm định dự án công, ba điểm quan trọng sau đâycủa kinh tế học phúc lợi ứng dụng thường được sử dụng như những căn cứ nền tảng. 1. Giá cầu cạnh tranh của một đơn vị sản phẩm được tính từ góc độ của người tiêu dùng tức là tính theo giá trị mà người mua sẵn sàng thanh toán để có được sản phẩm bất kể do ai cung cấp, khu vực công hay khu vực tư. 26 2. Giá cung cạnh tranh của một đơn vị sản phẩm được tính từ góc độ của nhà sản xuất. Trong bối cảnh chưa tính đến thuế và trợ giá, giá do người tiêu dùng trả và giá mà nhà cung cấp nhận được không hề bị biến dạng. Nói chung, chúng đồng nhất với nhau. Tuy nhiên vấn đề hoàn toàn khác khi chúng ta phải đối mặt với thực tế là chính phủ đánh thuế lên mọi hàng hóa, dịch vụ và/hoặc trong những trường hợp cần thiết chính phủ thực hiện chính sách trợ giá cho các nhà cung cấp đối với hàng hóa, dịch vụ cần khuyến khích. 3. Lợi ích và chi phí nên được nhìn nhận một cách tổng quan và không quan tâm đến ai nhận/chịu chúng. Phương pháp phân tích kinh tế sẽ bỏ qua trường hợp có sự chuyển giao lợi ích từ nhà cung cấp sang người tiêu dùng hoặc ngược lại v́ dù với tư cách gì chăng nữa họ cũng là công dân của một đất nước. H́nh 4.1: Đường cầu về số thuê bao điện thoại di động.Khi dự án ra đời, nó không chỉ làm tăng sản lượng mà có thể còn làm giảm giá hàng hóa,dịch vụ. Điều đó cho phép những người tiêu dùng tiềm năng tiếp cận được sản phẩm củadự án. Nói khác đi, thặng dư tiêu dùng của xã hội gia tăng là một phần lợi ích mà dự ánmang lại.Chẳng hạn chính phủ nước cộng hòa X phát triển mạng điện thoại di động. Điều đó sẽlàm giá cước hiện từ P0 giảm còn P1, đồng thời tăng số lượng thuê bao từ Q0 lên Q1.Người sử dụng điện thoại hiện hữu sẽ tiết kiệm được thể hiện ở phần diện tích hình chữnhật P1P0BD. Nhưng thực ra đây là phần doanh thu của các nhà cung cấp mạng điện thoại 27hiện hành bị mất đi. Do đó toàn xã hội không hề nhận được lợi ích ròng từ phần tiết kiệmnày. Chỉ có diện tích tam giác DBC mới là lợi ích ròng mà dự án thêm vào cho xã hội.Nếu xét trường hợp một đất nước trước đây nhập khẩu 100% điện, giờ phát triển dự ánnhà máy thủy điện, thì lợi ích kinh tế của dự án chính là toàn bộ diện tích hình thangP1P0BC.Nói như vậy không có nghĩa loại ra hiệu quả phân p ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình mô hình tài chính công - phần 2§5. MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG ĐẦU TƯCÔNG5.1 Mô hình xác định lợi ích kinh tế trong thị trường không biến dạngTừ chương này trở đi chúng ta sử dụng phương pháp kinh tế để thẩm định các dự áncông. Chi phí kinh tế của các yếu tố đầu vào và giá đầu ra có thể chênh lệch nhiều so vớicon số tài chính. Chẳng hạn các dự án như: cung cấp nước sạch nông thôn, xây dựngtrường phổ thông ở vùng sâu, đường nông thôn, …thường có giá trị đối với xã hội lớnhơn nhiều so với mức giá tài chính mà người dân chi trả. Nếu dự án điện của chính phủbán với giá thấp hơn giá kinh tế thì coi như chính phủ đã trợ cấp ngầm cho người sửdụng. Hoặc một dự án trả lương cho người lao động cao hơn chi phí kinh tế của lao động,tức là đã trợ cấp cho người lao động. V.v…Lợi ích, chi phí kinh tế và doanh thu, chi phí tài chính quan hệ gắn bó với nhau nhưngkhông thể đồng nhất chúng được. Sự khác biệt giữa giá kinh tế và giá tài chính là khoảnlợi nhuận siêu ngạch được dồn cho một nhóm người nào đó trong xã hội, đồng thời chothấy những thông tin hữu ích về phân phối chi phí và lợi ích. Nói cách khác, sự khác biệtgiữa các giá kinh tế và giá tài chính phản ánh một đối tượng khác ngoài chủ dự án hoặcđược hưởng lợi ích của dự án hoặc gánh chịu chi phí cho dự án. Như thế, khi phân tích tàichính, ta xem xét chủ dự án bỏ ra bao nhiêu tiền và chủ dự án thu về bao nhiêu dòng tiềnròng. Còn khi phân tích kinh tế, chúng ta không chỉ xem xét chủ dự án bỏ ra và thu vềbao nhiêu dòng tiền ròng mà còn xét đến cả lợi ích và chi phí của những đối tượng khôngtrực tiếp tham gia vào dự án. Bằng cách nhận diện các nhóm đối tượng ngoài chủ dự ánđược hưởng lợi từ dự án và các nhóm gánh chịu chi phí của dự án, chúng ta sẽ thu thậpđược những thông tin về động cơ khuyến khích nhóm này ủng hộ còn nhóm khác phảnđối.Trong các nền kinh tế ít méo mó, giá thị trường có thể được dùng làm chi phí cơ hội củacác đầu vào và các đầu ra. Trong nền kinh tế mà giá cả bị bóp méo thì giá thị trườngkhông thể sử dụng để xác định chi phí kinh tế. Mà phân tích kinh tế phải đánh giá đượcđóng góp của dự án đối với phúc lợi xã hội hay lợi ích của toàn thể đất nước. Do đó cầnphải triệt tiêu sự méo mó của giá cả bằng cách sử dụng giá mờ (shadow price) là mức giáphản ánh xấp xỉ chi phí cơ hội và lợi ích của dự án, thay vì dùng giá thị trường.5.1.1 Ba căn cứ quan trọngKhi sử dụng phương pháp kinh tế để thẩm định dự án công, ba điểm quan trọng sau đâycủa kinh tế học phúc lợi ứng dụng thường được sử dụng như những căn cứ nền tảng. 1. Giá cầu cạnh tranh của một đơn vị sản phẩm được tính từ góc độ của người tiêu dùng tức là tính theo giá trị mà người mua sẵn sàng thanh toán để có được sản phẩm bất kể do ai cung cấp, khu vực công hay khu vực tư. 26 2. Giá cung cạnh tranh của một đơn vị sản phẩm được tính từ góc độ của nhà sản xuất. Trong bối cảnh chưa tính đến thuế và trợ giá, giá do người tiêu dùng trả và giá mà nhà cung cấp nhận được không hề bị biến dạng. Nói chung, chúng đồng nhất với nhau. Tuy nhiên vấn đề hoàn toàn khác khi chúng ta phải đối mặt với thực tế là chính phủ đánh thuế lên mọi hàng hóa, dịch vụ và/hoặc trong những trường hợp cần thiết chính phủ thực hiện chính sách trợ giá cho các nhà cung cấp đối với hàng hóa, dịch vụ cần khuyến khích. 3. Lợi ích và chi phí nên được nhìn nhận một cách tổng quan và không quan tâm đến ai nhận/chịu chúng. Phương pháp phân tích kinh tế sẽ bỏ qua trường hợp có sự chuyển giao lợi ích từ nhà cung cấp sang người tiêu dùng hoặc ngược lại v́ dù với tư cách gì chăng nữa họ cũng là công dân của một đất nước. H́nh 4.1: Đường cầu về số thuê bao điện thoại di động.Khi dự án ra đời, nó không chỉ làm tăng sản lượng mà có thể còn làm giảm giá hàng hóa,dịch vụ. Điều đó cho phép những người tiêu dùng tiềm năng tiếp cận được sản phẩm củadự án. Nói khác đi, thặng dư tiêu dùng của xã hội gia tăng là một phần lợi ích mà dự ánmang lại.Chẳng hạn chính phủ nước cộng hòa X phát triển mạng điện thoại di động. Điều đó sẽlàm giá cước hiện từ P0 giảm còn P1, đồng thời tăng số lượng thuê bao từ Q0 lên Q1.Người sử dụng điện thoại hiện hữu sẽ tiết kiệm được thể hiện ở phần diện tích hình chữnhật P1P0BD. Nhưng thực ra đây là phần doanh thu của các nhà cung cấp mạng điện thoại 27hiện hành bị mất đi. Do đó toàn xã hội không hề nhận được lợi ích ròng từ phần tiết kiệmnày. Chỉ có diện tích tam giác DBC mới là lợi ích ròng mà dự án thêm vào cho xã hội.Nếu xét trường hợp một đất nước trước đây nhập khẩu 100% điện, giờ phát triển dự ánnhà máy thủy điện, thì lợi ích kinh tế của dự án chính là toàn bộ diện tích hình thangP1P0BC.Nói như vậy không có nghĩa loại ra hiệu quả phân p ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
mô hình tài chính công mô hình tài chính lý thuyết mô hình tài chính đầu tư công phương pháp phân tích kinh tế các bước đo lợi ích kinh tếGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đầu tư công giai đoạn 2010-2019 và những vấn đề đặt ra cho giai đoạn mới
3 trang 125 0 0 -
Tăng cường hiệu lực của hệ thống quản lý đầu tư công theo tinh thần Luật Đầu tư công tại Việt Nam
9 trang 48 0 0 -
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công tại huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
9 trang 41 0 0 -
Các yếu tố gây chậm tiến độ và vượt dự toán các dự án đầu tư công tại Việt Nam
8 trang 37 0 0 -
15 trang 36 0 0
-
Pháp luật về đầu tư công và một số đề xuất, kiến nghị
5 trang 36 0 0 -
Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam
19 trang 36 0 0 -
Tái cơ cấu đầu tư công trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
5 trang 35 0 0 -
Giáo trình Phân tích và dự báo trong kinh tế: Phần 1
77 trang 34 0 0 -
167 trang 33 0 0