GIÚP HỌC SINH LỚP HAI CÓ NHỮNG BÀI VIẾT SINH ĐỘNG SÁNG TẠO VÀ MANG TÍNH RIÊNG BIỆT
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 242.27 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GIÚP HỌC SINH LỚP HAI CÓ NHỮNG BÀI VIẾT SINH ĐỘNG SÁNG TẠO VÀ MANG TÍNH RIÊNG BIỆT GIÚP HỌC SINH LỚP HAI CÓ NHỮNG BÀI VIẾT SINH ĐỘNGSÁNG TẠO VÀ MANG TÍNH RIÊNG BIỆT I/ ĐẶT VẤN ĐỀ : - Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy. - Để làm được một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trường xung quanh, về vốn hiểu biết, … nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng hợp các kiến thức mà học sinh đã học được ở các phân môn tiếng việt khác. Bởi vậy, tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp. - Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi học sinh. - Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do đó, sau một thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các em hứng thú khi học môn này.II. NỘI DUNGA. MỤC ĐÍCH CHUNG CỦA MÔN TẬP LÀM VĂN - Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc,phục vụ cho học tập giao tiếp cụ thể là giúp các em : - Nắm được các nghi thức lời nói như : chào hỏi, tự giới thiệu,cảm ơn, xin lỗi, nhờ, cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối,chia vui, chia buồn, … Biết sử dụng chúng trong một số tình huống giao tiếp ởgia đình, trong trường học và nơi công cộng - Nắm được một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàngngày như khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư để nhắn tin, chia vui hoặcchia buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh, tra mục lụcsách, đọc thời khoá biểu, đọc và lập thời gian biểu … - Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược người, vật xung quanh theogợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. - Nghe hiểu được ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến bổ sung nhậnxét.B. SỐ TIẾT HỌC TRONG CẢ NĂM - Học kỳ I : 16 tiết - Học kỳ II : 15 tiếtC. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP1/ Nghi thức lời nói : - Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàngngày. Tuy nhiên , có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ítnói. Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nhútnhát nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể là sắm vai, có thểlà trò chơi hay thi đua cùng nhau … mỗi em có một suy nghĩ khác nên lời nóicũng khác, giáo viên cứ để các em tự do bộc lộ nhưng giáo viên cũng nênthống nhất những điểm chung sau : Đại từ xưng hô với đối tượng của bản thân mình phải phù hợp. Thái độ , cử chỉ, lời nói phải phù hợp với tình huống. Lịch sự, tự nhiên khi nói cũng như khi viết . a/ Chào hỏi, tự giới thiệu, xin lỗi, mời nhờ, yêu cầu, đề nghị, chiabuồn, khen ngợi, chia vui… - Đây là những câu nói thường ngày các em giao tiếp. Đa số cácem đã biết nói. Tuy vậy, để các em có thể nói rõ ràng, rành mạch hơn giáoviên nên cho các em nhập vai bằng cách giao cho học sinh những tình huốngcụ thể - Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói vớitừng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có nhữngđại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác tùy tình huốngvui hay buồn. - Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm đểcâu văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a … b/ Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn, xin lỗi, từ chối, chia vui … - Tất cả những lời đáp trên rất hay gặp trong đời sống nhưng cácem lại rất ít nói, có em chẳng hề nói nên các em thấy hơi xa lạ. Thế nên, giáoviên không chỉ dạy thực hành trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọilúc mọi nơi với một thời gian dài. - Đối với lời đáp này các em thường ngại ngần không muốn nóinên giáo viên cần cho các em sắm vai. Quan trọng hơn nữa là giáo viên cầncho các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp vàlời nói. Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các emcó thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên nhânlà do các em chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi vậy, giáoviên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt mình vào tình huống của đề bài,cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy, các em mới không bị lầm lẫn. - Ngoài ra giáo viên cũng cần lưu ý các em về t ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GIÚP HỌC SINH LỚP HAI CÓ NHỮNG BÀI VIẾT SINH ĐỘNG SÁNG TẠO VÀ MANG TÍNH RIÊNG BIỆT GIÚP HỌC SINH LỚP HAI CÓ NHỮNG BÀI VIẾT SINH ĐỘNGSÁNG TẠO VÀ MANG TÍNH RIÊNG BIỆT I/ ĐẶT VẤN ĐỀ : - Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, nó giúp học sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy. - Để làm được một bài tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức về tập đọc, từ và câu, về những kiến thức đã học, về môi trường xung quanh, về vốn hiểu biết, … nói chung môn tập làm văn đòi hỏi là tổng hợp các kiến thức mà học sinh đã học được ở các phân môn tiếng việt khác. Bởi vậy, tập làm văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp. - Tập làm văn còn mang tính hiện thực sáng tạo vì một bài tập làm văn thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi học sinh. - Khi dạy một bài tập làm văn, giáo viên hay gặp khó khăn là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh khá giỏi là hoạt động hoặc các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành đoạn, diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn… Nói đã khó, viết càng khó hơn. Do đó, sau một thời gian giảng dạy, tôi suy nghĩ nên làm cách nào để giúp các em hứng thú khi học môn này.II. NỘI DUNGA. MỤC ĐÍCH CHUNG CỦA MÔN TẬP LÀM VĂN - Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc,phục vụ cho học tập giao tiếp cụ thể là giúp các em : - Nắm được các nghi thức lời nói như : chào hỏi, tự giới thiệu,cảm ơn, xin lỗi, nhờ, cậy, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành, từ chối,chia vui, chia buồn, … Biết sử dụng chúng trong một số tình huống giao tiếp ởgia đình, trong trường học và nơi công cộng - Nắm được một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàngngày như khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư để nhắn tin, chia vui hoặcchia buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh sách học sinh, tra mục lụcsách, đọc thời khoá biểu, đọc và lập thời gian biểu … - Kể một sự việc đơn giản, tả sơ lược người, vật xung quanh theogợi ý bằng tranh, bằng câu hỏi. - Nghe hiểu được ý kiến của bạn, có thể nêu ý kiến bổ sung nhậnxét.B. SỐ TIẾT HỌC TRONG CẢ NĂM - Học kỳ I : 16 tiết - Học kỳ II : 15 tiếtC. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP1/ Nghi thức lời nói : - Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàngngày. Tuy nhiên , có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ítnói. Bởi vậy, giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nhútnhát nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể là sắm vai, có thểlà trò chơi hay thi đua cùng nhau … mỗi em có một suy nghĩ khác nên lời nóicũng khác, giáo viên cứ để các em tự do bộc lộ nhưng giáo viên cũng nênthống nhất những điểm chung sau : Đại từ xưng hô với đối tượng của bản thân mình phải phù hợp. Thái độ , cử chỉ, lời nói phải phù hợp với tình huống. Lịch sự, tự nhiên khi nói cũng như khi viết . a/ Chào hỏi, tự giới thiệu, xin lỗi, mời nhờ, yêu cầu, đề nghị, chiabuồn, khen ngợi, chia vui… - Đây là những câu nói thường ngày các em giao tiếp. Đa số cácem đã biết nói. Tuy vậy, để các em có thể nói rõ ràng, rành mạch hơn giáoviên nên cho các em nhập vai bằng cách giao cho học sinh những tình huốngcụ thể - Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh khi nói vớitừng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì có nhữngđại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác tùy tình huốngvui hay buồn. - Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm đểcâu văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như : nhé, nha, a … b/ Đáp lời chào, đáp lời cảm ơn, xin lỗi, từ chối, chia vui … - Tất cả những lời đáp trên rất hay gặp trong đời sống nhưng cácem lại rất ít nói, có em chẳng hề nói nên các em thấy hơi xa lạ. Thế nên, giáoviên không chỉ dạy thực hành trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọilúc mọi nơi với một thời gian dài. - Đối với lời đáp này các em thường ngại ngần không muốn nóinên giáo viên cần cho các em sắm vai. Quan trọng hơn nữa là giáo viên cầncho các em nắm rõ tình huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp vàlời nói. Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì đã làm dơ áo em. Các emcó thể bị lầm và nói là : - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên nhânlà do các em chưa đọc kỹ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi vậy, giáoviên cần tập cho các em đọc kỹ đề bài. Đặt mình vào tình huống của đề bài,cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy, các em mới không bị lầm lẫn. - Ngoài ra giáo viên cũng cần lưu ý các em về t ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sáng kiến kinh nghiệm tiểu học tập làm văn lớp 2 giáo án khối tiểu học sáng kiến kinh nghiệm giáo dục tiểu họcTài liệu liên quan:
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5
18 trang 2023 21 0 -
47 trang 981 6 0
-
65 trang 752 9 0
-
7 trang 604 8 0
-
16 trang 536 3 0
-
26 trang 478 0 0
-
23 trang 476 0 0
-
29 trang 474 0 0
-
37 trang 474 0 0
-
65 trang 468 3 0