Hai phương thuốc tên 'long'
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 358.05 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Theo học thuyết Ngũ hành, năm Nhâm Thìn được quy tụ của Thiên can là hành Mộc, thuộc phạm trù Nhâm và Địa chi là hành Thổ, thuộc phạm trù Thìn. Theo y học cổ truyền, các tạng, phủ trong cơ thể luôn có sự liên hệ gắn bó mật thiết với Ngũ hành. Tạng can, phủ đởm có quan hệ với hành Mộc, tạng tỳ, phủ vị có quan hệ với hành Thổ. Năm Nhâm Thìn nên lưu ý các bệnh tật ảnh hưởng đến các tạng, phủ, như can, đởm và tỳ vị....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hai phương thuốc tên “long”Hai phương thuốc tên “long”Theo học thuyết Ngũ hành, năm Nhâm Thìn được quy tụ của Thiên can là hànhMộc, thuộc phạm trù Nhâm và Địa chi là hành Thổ, thuộc phạm trù Thìn. Theo yhọc cổ truyền, các tạng, phủ trong cơ thể luôn có sự liên hệ gắn bó mật thiết vớiNgũ hành. Tạng can, phủ đởm có quan hệ với hành Mộc, tạng tỳ, phủ vị có quanhệ với hành Thổ. Năm Nhâm Thìn nên lưu ý các bệnh tật ảnh hưởng đến các tạng,phủ, như can, đởm và tỳ vị. (Rễ cây long đởm)Gan là một tạng có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể, có chức năng tàng huyết,chủ việc sơ tiết (men, mật), chủ cân (gân)…; còn có chức năng giải độc cho cơ thể.Vào những ngày đầu xuân vui vẻ, đón mừng năm mới, hiện tượng “chén chú chénanh” là không tránh khỏi, tất nhiên ảnh hưởng đến chức năng của gan. Mặt khácvào các tháng giao thời cuối xuân đầu hè, thời tiết nóng ẩm, dễ nảy sinh các yếu tốngoại lai gây bệnh cho gan.Bài viết này xin giới thiệu 2 phương thuốc điển hình mang tên “long = rồng”, dùngđể trị các chứng bệnh của can, đởm (thuộc Nhâm) và các chứng bệnh của tỳ, vị(thuộc Thìn).Phương “Long đởm tả can thang” là phương thuốc cổ truyền có giá trị phòng trịbệnh gan, mật, đã được y học Đông phương sử dụng từ lâu đời, cho hiệu quả tốt.Tên của phương thuốc đã gợi cho ta một ấn tượng đầu tiên về hình ảnh của con“rồng = long”, ở đây là “long đởm = mật rồng”, gồm có: long đởm 18g, chi tử 12g,mộc thông 12g, đương quy 10g, sài hồ 12g, hoàng cầm 12g, trạch tả 12g, xa tiền tử6g, sinh địa 12g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn. Cóthể bào chế dưới dạng thuốc hoàn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 15g. Khi uống cầnkiêng mỡ, rượu. Phương thuốc này được sử dụng trị các chứng thực hỏa ở canđởm, đau đầu, mắt đỏ, đau sườn ngực, đau vùng gan, miệng đắng, tai ù, sưng tai;hoặc các chứng can đởm thấp nhiệt, viêm gan, viêm túi mật, vàng da, men gantăng, kém ăn do chức năng gan mật giảm sút; hoặc các chứng thấp nhiệt ở hạ tiêu,âm vật ngứa, sưng đau, ra mồ hôi, tiểu đục, tiểu khó, khí hư bạch đới của phụ nữ.Trường hợp ngứa lở hạ tiêu, có thể dùng nước sắc lần cuối của thang thuốc làmnước rửa.Lưu ý: Thang thuốc có nhiều vị gây đắng như long đởm, hoàng cầm, chi tử nênkhông uống liên tục trong thời gian dài làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa củatỳ, vị. Chỉ nên mỗi liệu trình 3 – 4 tuần lễ. Tạm ngừng ít ngày rồi có thể uống tiếp.Phương “Nhị long ẩm” trị các chứng gây tổn thương do tỳ, vị thuộc hành Thổ.Theo Đông y, tạng tỳ có chức năng ích khí và sinh huyết. Nếu chức năng này bịsuy yếu sẽ dẫn đến khả năng tạo ra năng lượng và tạo huyết dịch cho cơ thể bị hạnchế gây tiêu hóa kém, ăn uống kém, dẫn đến thiếu máu, da xanh, gầy, háo khát, đạitiện táo kết, môi khô, miệng lở, da khô, sắc mặt vàng vọt, phụ nữ kinh huyết kém.“Nhị long” là hai vị thuốc cao ban long 32g và long nhãn 32g. Long nhãn sắc lấyđộ 1 bát nước, nhân lúc còn nóng thái cao ban long vào, quấy đều cho tan, uốngkhi còn ấm. Dùng 2-3 lần/tuần. Một liệu trình có thể kéo dài 3 – 4 tuần lễ. Cao banlong được bào chế từ sừng con hươu, nai đực có tác dụng bổ huyết, bổ phế, cốthận, thêm tinh. Long nhãn là cùi của quả cây nhãn sấy khô. Long nhãn có vị ngọt,tác dụng bổ huyết, an thần, ích trí, kiện tỳ, vị. Như vậy cả hai vị thuốc trongphương đều là những vị thuốc bổ huyết quý giá. “Nhị long ẩm” được dùng trongcác trường hợp mất ngủ, lo nghĩ quá nhiều làm tổn thương đến tỳ, vị.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hai phương thuốc tên “long”Hai phương thuốc tên “long”Theo học thuyết Ngũ hành, năm Nhâm Thìn được quy tụ của Thiên can là hànhMộc, thuộc phạm trù Nhâm và Địa chi là hành Thổ, thuộc phạm trù Thìn. Theo yhọc cổ truyền, các tạng, phủ trong cơ thể luôn có sự liên hệ gắn bó mật thiết vớiNgũ hành. Tạng can, phủ đởm có quan hệ với hành Mộc, tạng tỳ, phủ vị có quanhệ với hành Thổ. Năm Nhâm Thìn nên lưu ý các bệnh tật ảnh hưởng đến các tạng,phủ, như can, đởm và tỳ vị. (Rễ cây long đởm)Gan là một tạng có vai trò rất quan trọng đối với cơ thể, có chức năng tàng huyết,chủ việc sơ tiết (men, mật), chủ cân (gân)…; còn có chức năng giải độc cho cơ thể.Vào những ngày đầu xuân vui vẻ, đón mừng năm mới, hiện tượng “chén chú chénanh” là không tránh khỏi, tất nhiên ảnh hưởng đến chức năng của gan. Mặt khácvào các tháng giao thời cuối xuân đầu hè, thời tiết nóng ẩm, dễ nảy sinh các yếu tốngoại lai gây bệnh cho gan.Bài viết này xin giới thiệu 2 phương thuốc điển hình mang tên “long = rồng”, dùngđể trị các chứng bệnh của can, đởm (thuộc Nhâm) và các chứng bệnh của tỳ, vị(thuộc Thìn).Phương “Long đởm tả can thang” là phương thuốc cổ truyền có giá trị phòng trịbệnh gan, mật, đã được y học Đông phương sử dụng từ lâu đời, cho hiệu quả tốt.Tên của phương thuốc đã gợi cho ta một ấn tượng đầu tiên về hình ảnh của con“rồng = long”, ở đây là “long đởm = mật rồng”, gồm có: long đởm 18g, chi tử 12g,mộc thông 12g, đương quy 10g, sài hồ 12g, hoàng cầm 12g, trạch tả 12g, xa tiền tử6g, sinh địa 12g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trước bữa ăn. Cóthể bào chế dưới dạng thuốc hoàn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 15g. Khi uống cầnkiêng mỡ, rượu. Phương thuốc này được sử dụng trị các chứng thực hỏa ở canđởm, đau đầu, mắt đỏ, đau sườn ngực, đau vùng gan, miệng đắng, tai ù, sưng tai;hoặc các chứng can đởm thấp nhiệt, viêm gan, viêm túi mật, vàng da, men gantăng, kém ăn do chức năng gan mật giảm sút; hoặc các chứng thấp nhiệt ở hạ tiêu,âm vật ngứa, sưng đau, ra mồ hôi, tiểu đục, tiểu khó, khí hư bạch đới của phụ nữ.Trường hợp ngứa lở hạ tiêu, có thể dùng nước sắc lần cuối của thang thuốc làmnước rửa.Lưu ý: Thang thuốc có nhiều vị gây đắng như long đởm, hoàng cầm, chi tử nênkhông uống liên tục trong thời gian dài làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hóa củatỳ, vị. Chỉ nên mỗi liệu trình 3 – 4 tuần lễ. Tạm ngừng ít ngày rồi có thể uống tiếp.Phương “Nhị long ẩm” trị các chứng gây tổn thương do tỳ, vị thuộc hành Thổ.Theo Đông y, tạng tỳ có chức năng ích khí và sinh huyết. Nếu chức năng này bịsuy yếu sẽ dẫn đến khả năng tạo ra năng lượng và tạo huyết dịch cho cơ thể bị hạnchế gây tiêu hóa kém, ăn uống kém, dẫn đến thiếu máu, da xanh, gầy, háo khát, đạitiện táo kết, môi khô, miệng lở, da khô, sắc mặt vàng vọt, phụ nữ kinh huyết kém.“Nhị long” là hai vị thuốc cao ban long 32g và long nhãn 32g. Long nhãn sắc lấyđộ 1 bát nước, nhân lúc còn nóng thái cao ban long vào, quấy đều cho tan, uốngkhi còn ấm. Dùng 2-3 lần/tuần. Một liệu trình có thể kéo dài 3 – 4 tuần lễ. Cao banlong được bào chế từ sừng con hươu, nai đực có tác dụng bổ huyết, bổ phế, cốthận, thêm tinh. Long nhãn là cùi của quả cây nhãn sấy khô. Long nhãn có vị ngọt,tác dụng bổ huyết, an thần, ích trí, kiện tỳ, vị. Như vậy cả hai vị thuốc trongphương đều là những vị thuốc bổ huyết quý giá. “Nhị long ẩm” được dùng trongcác trường hợp mất ngủ, lo nghĩ quá nhiều làm tổn thương đến tỳ, vị.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kiến thức y học chuyên ngành y học y học dân tộc cách chăm sóc sức khỏe bệnh ở người đông y chữa bệnhTài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 232 0 0 -
7 trang 191 0 0
-
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 183 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 138 0 0 -
GIÁO TRÌNH phân loại THUỐC THỬ HỮU CƠ
290 trang 125 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 113 0 0 -
Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học y học - PGS. TS Đỗ Hàm
92 trang 109 0 0 -
4 trang 107 0 0
-
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 95 0 0